
Xuất khẩu còn phụ thuộc vào thị trường bên ngoài bất định, đầu tư công chậm giải ngân, doanh nghiệp tư nhân chưa hồi phục đủ mạnh. Trong bức tranh ấy, tiêu dùng của người dân – chiếm gần 64% GDP – lẽ ra phải là động cơ chủ lực, nhưng thực tế đang yếu dần.
Khi “trái tim” tiêu dùng yếu dần
Theo tính toán của nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm, trong giai đoạn 2016–2019, tiêu dùng của dân cư chiếm tới 68,1% GDP. Đến 2020–2024, tỷ trọng này rơi xuống 54,9%, trong khi chi tiêu của Nhà nước tăng từ 6,5% lên 9,1% GDP.
Còn theo Cục Thống kê, trong 9 tháng năm 2025, tiêu dùng cuối cùng tăng 8,07%, đóng góp 73,8% vào tăng trưởng GDP, nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu 10,5% mà Chính phủ đề ra.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,5% theo giá hiện hành, chỉ còn 7,2% khi loại trừ yếu tố giá. Thị trường nội địa – vốn là “vùng đệm” của nền kinh tế trong khủng hoảng – đang chậm nhịp.

Niềm tin người tiêu dùng sụt mạnh. Theo Worldpanel by Numerator, quý II/2025, chỉ số niềm tin tiêu dùng đã xuống mức thấp nhất kể từ sau COVID-19. Người dân cắt giảm chi tiêu, tăng gửi tiết kiệm và tích trữ tài sản.
Tiền gửi dân cư lên tới 7,7 triệu tỷ đồng, tăng hơn 12% so với cùng kỳ năm trước, theo Ngân hàng Nhà nước. Con số nói lên tất cả: người dân chọn giữ tiền, không tiêu tiền.
Theo báo cáo Điều tra Lao động và Việc làm tháng 9, các hộ có thu nhập trong quý III/2025 giảm so với cùng kỳ năm trước cho biết nguyên nhân chủ yếu là do có thành viên hộ mất việc làm hoặc tạm nghỉ việc (34,1%); do quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ giảm (27,7%); do chi phí đầu vào tăng (23,4%); và do giá bán sản phẩm giảm (22,7%).
Một nền kinh tế sẽ khó bứt tốc nếu người dân chỉ lo giữ tiền của thay vì tiêu dùng và đầu tư.
Tiêu dùng của dân không được tiếp sức
Hiện nay, vẫn có một số chính sách hỗ trợ tiêu dùng, như tiếp tục giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ; chính sách miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông; và tặng 100.000 đồng/người cho toàn dân nhân dịp Tết Độc lập.
Bên cạnh đó, tổng số tiền hỗ trợ an sinh xã hội cho các nhóm đối tượng lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm – những chính sách giàu tính nhân văn.
Tuy vậy, nhiều chính sách tác động trực tiếp đến sức mua của dân vẫn chưa được điều chỉnh, hoặc điều chỉnh nhỏ giọt và chậm chạp.
Thuế thu nhập cá nhân vẫn giữ mức giảm trừ 11 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và 4,4 triệu đồng/người phụ thuộc – con số của năm 2020. Sáu năm trôi qua, giá nhà, học phí, viện phí, điện, nước đều tăng mạnh, nhưng ngưỡng thuế không đổi, khiến hàng chục triệu lao động phải đóng thuế trên cả phần chi tiêu tối thiểu.
Phải đến 2026, ngưỡng này mới được nâng lên 15,5 triệu đồng/tháng và 6,2 triệu đồng/người phụ thuộc. Nhưng sự điều chỉnh muộn mằn ấy không thể bù lại khoản thu nhập thực đã bị bào mòn trong nhiều năm qua.
Không chỉ người làm công ăn lương, khu vực hộ kinh doanh nhỏ – nơi tạo việc làm và sức mua lớn nhất – cũng đang chịu sức ép mới.
Theo dự kiến của Bộ Tài chính, từ năm 2026, hộ có doanh thu trên 200 triệu đồng/năm sẽ phải nộp thuế theo doanh thu thực tế. Với ngưỡng này, chỉ cần doanh thu khoảng 20–30 triệu đồng/tháng – mức phổ biến ở tiệm tạp hóa, quán ăn sáng, cà phê vỉa hè – đã vượt ngưỡng chịu thuế.
Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, cảnh báo: “Ngưỡng 200 triệu đồng/năm là quá thấp, không phù hợp với thực tế vận hành của kinh tế hộ. Trong điều kiện chi phí đầu vào tăng, nhiều hộ chưa kịp có lãi đã phải nộp thuế.”
Theo bà, nên nâng ngưỡng lên 1 tỷ đồng/năm, tương ứng lợi nhuận khoảng 15% doanh thu, tức chỉ 13–15 triệu đồng/tháng – mức thu nhập trung bình của một người lao động thành thị.
Đánh thuế theo doanh thu danh nghĩa, bỏ qua thực tế chi phí, là cách đánh vào khu vực sinh kế nhỏ nhất của nền kinh tế. Và khi các tiệm ăn, cửa hàng nhỏ phải tăng giá để bù thuế, người gánh cuối cùng vẫn là người tiêu dùng.
Đáng kể nhất là thuế nhà, đất. Thu từ đất đai tăng vọt 218%, thu nội địa tăng gần 19% trong 9 tháng 2025, trong khi giải ngân đầu tư công vẫn ì ạch.
Nói một cách giản dị, tiền được thu về nhanh hơn nhiều so với tốc độ chi ra – dòng tiền đang chảy ngược chiều với nhu cầu phục hồi của nền kinh tế.
Tăng trưởng thu nhập danh nghĩa không còn phản ánh đúng sức mua thực tế. Trong 9 tháng đầu năm 2025, thu nhập bình quân đạt 8,3 triệu đồng/tháng, tăng 10% so với cùng kỳ 2024, nhưng phần lớn mức tăng ấy tan biến vào chi phí sinh hoạt. Giá nhà, học phí, y tế, điện, nước, xăng dầu đều leo thang, khiến thu nhập khả dụng – phần còn lại để tiêu dùng – ngày càng mỏng.
Điều đáng nói là giá nhà – yếu tố tác động mạnh đến tiêu dùng – lại không được tính vào CPI.
Phải thay đổi cách nhìn để bồi dưỡng sức mua
Muốn đạt được tăng trưởng hai con số, trước hết phải nhìn lại vị thế của người dân trong nền kinh tế. Họ cần được coi là động lực phát triển, là mạch máu truyền niềm tin, việc làm và đầu tư. Vì thế, khi nền kinh tế cần bứt tốc, cần rất thận trọng với việc tăng thuế, tăng phí, điều chỉnh giá dịch vụ công.
Trước hết, cần khơi thông sức mua.
Một là, tăng thu nhập thực của người dân. Điều chỉnh kịp thời mức giảm trừ thuế TNCN; cho phép khấu trừ chi phí thiết yếu như học phí, y tế, lãi vay nhà ở, bảo hiểm; cải cách tiền lương gắn với năng suất, không chỉ dựa vào CPI.
Hai là, giảm chi phí sinh hoạt cơ bản. Công khai cấu phần giá dịch vụ công; tách rõ chi phí – đầu tư – lợi nhuận trong điện, nước, y tế, giáo dục, viễn thông. Coi Internet, dữ liệu, năng lượng sạch là hạ tầng dân sinh, không phải hàng xa xỉ. Đẩy mạnh nhà ở xã hội, tín dụng nhà ở trung lưu để giảm chi phí cố định của nhóm hộ tạo sức mua lớn nhất.
Ba là, kích cầu tiêu dùng thông minh. Xem thanh toán số, thương mại điện tử, logistics là hạ tầng tiêu dùng quốc gia. Các gói hỗ trợ – như voucher năng lượng sạch, giáo dục, y tế dự phòng – nên có mục tiêu và thời hạn rõ ràng, giúp chuyển hỗ trợ thành hành vi chi tiêu thực tế.
Muốn đạt được tăng trưởng hai con số, không thể chỉ trông vào xuất khẩu hay đầu tư công, mà phải bắt đầu từ sức mua và niềm tin của người dân.
Một nền kinh tế khỏe không phải là nền kinh tế thu được nhiều thuế, mà là nền kinh tế để người dân có khả năng chi tiêu, đầu tư và mưu cầu cuộc sống tốt hơn.
Chính sách tài khóa cần chuyển trọng tâm từ “thu nhiều để chi” sang “nuôi dưỡng sức mua để tăng trưởng”. Chính sách thuế cần coi việc bảo vệ thu nhập khả dụng của người dân là điều kiện tiên quyết của phát triển. Chính sách xã hội cần đặt mục tiêu giảm chi phí sinh hoạt cơ bản – học phí, y tế, nhà ở, năng lượng – như một phần của chiến lược tăng trưởng.
Và điều quan trọng nhất, phải giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát hiệu quả.
Khi người dân được giải phóng khỏi những gánh nặng không cần thiết, họ sẽ trở thành nguồn động lực mạnh nhất cho tăng trưởng và sáng tạo. Đó không chỉ là yêu cầu kinh tế, mà còn là tư duy phát triển mới – lấy con người làm trung tâm, coi sức dân là gốc của quốc gia thịnh vượng.
Chính người dân sẽ làm nên kỳ tích tăng trưởng 2 con số khi họ sống tốt hơn, tiêu dùng mạnh hơn, đóng góp nhiều hơn vào tương lai của chính mình, người thân và đất nước mình.
