Xin trân trọng giới thiệu hai vị khách mời: 

Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Cố vấn cao cấp, Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và phát triển quốc tế (CSSD).

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng, Bộ Quốc phòng.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối đối ngoại Việt Nam

Nhà báo Diệu Thuý: Thưa Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân, xin ông cho biết tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại của Việt Nam ngay từ những năm 1920? 

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân: Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt được các đặc điểm của thời đại mới và hoạt động tích cực để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Tư tưởng của Người là hợp tác quốc tế để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu và thực hiện chiến lược phát triển đất nước, gắn liền với những chuyển biến mang tính thời đại. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mời những nhà chuyên môn Pháp, Mỹ, Nga hay Trung Quốc giúp kiến thiết quốc gia. Trong lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc... 

Sau 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng lãnh đạo, chủ trương đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế, giao thương, tranh thủ viện trợ kinh tế - kỹ thuật của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các lực lượng dân chủ, hòa bình thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chính sách đối ngoại là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. 

Người đã khéo léo chèo lái cách mạng Việt Nam theo con đường độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy nội lực của toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân

Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại

Một là, phải độc lập, tự chủ trong đối ngoại và hợp tác quốc tế. Độc lập, tự chủ là tư duy nổi bật, nhất quán, nguyên lý chủ yếu: Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rất cụ thể và sâu sắc mối quan hệ biện chứng, sự gắn kết giữa độc lập, tự chủ với mở rộng và tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế; giữa tự lực, tự cường với hợp tác và phát triển. Trong mối quan hệ biện chứng đó, “độc lập, tự chủ” luôn giữ vai trò quyết định, nền tảng để đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới.

Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác đối ngoại. Người coi nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.

Muốn tranh thủ sức mạnh thời đại phải có đường lối đúng đắn, phát huy độc lập tự chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại. Người chỉ rõ phải chú trọng xây dựng và phát huy sức mạnh của công tác đối ngoại nhân dân và khẳng định: “Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới...”

Ba là, luôn yêu chuộng hòa bình, chống chiến tranh xâm lược.

Bốn là, luôn có tinh thần hòa hiếu, “thêm bạn, bớt thù”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ bạn - thù, tìm cách giảm bớt kẻ thù, tránh đối phó với nhiều kẻ thù cùng lúc, xác định kẻ thù chính là để tập trung đấu tranh. 

Năm là, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần tuyên bố, Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Đây chính là tư tưởng đặt nền móng cho đa phương hóa, đa dạng hóa công tác đối ngoại hiện nay.

Sáu là, nhất quán phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Theo đó, cái “bất biến” là lợi ích của quốc gia - dân tộc, độc lập dân tộc, chủ quyền..., là cốt lõi. Cái “vạn biến” là cách ứng phó tài tình, khéo léo, linh hoạt, kết hợp hài hòa giữa mềm dẻo và kiên quyết, giữa chiến lược và sách lược, giữa cương và nhu, giữa chủ động và sáng tạo trong những tình huống cụ thể. 

Để thực hiện “ứng vạn biến”, cần phải đánh giá đúng tình hình quốc tế và sự tác động đối với nước ta, cả mặt thuận và khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”.

Đường lối đối ngoại của Đảng trong chặng đường 36 năm đổi mới

Nhà báo Diệu Thuý: Theo ông, đường lối đối ngoại của Đảng ta trong suốt chặng đường hơn 36 năm đổi mới gồm những trọng tâm gì?

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân: Phát huy mạnh mẽ tư duy đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986), có thể thấy, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia/dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời kỳ đổi mới.

Đảng ta đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 8 Khóa IX (năm 2003) lần đầu tiên nêu rõ các thành tố cơ bản của lợi ích quốc gia - dân tộc. Từ Đại hội XI (năm 2011), Đảng khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại, trong đó lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc thống nhất với nhau.

Từ khi đổi mới, đối ngoại Việt Nam luôn giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi cho bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nghị quyết 13 Bộ Chính trị Khóa VI (năm 1988) đề ra nhiệm vụ tranh thủ ủng hộ quốc tế và xu thế quốc tế hóa để phát triển đất nước. Đến Đại hội XII (năm 2016), khẳng định rõ nhiệm vụ của đối ngoại gồm 3 thành tố an ninh, phát triển và vị thế đất nước.

Từ chủ trương "thêm bạn, bớt thù", Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm, phương châm chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới là nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; "là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế"; nắm vững hai mặt đối tác - đối tượng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên định nguyên tắc, mục tiêu chiến lược nhưng linh hoạt, khôn khéo về sách lược, "dĩ bất biến, ứng vạn biến"... 

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội XI): Đây cũng là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng nhấn mạnh về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc, trong đó nhất quán kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng.

Đối ngoại song phương và đa phương từng bước điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện. Từ tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa" (Đại hội VI) đến hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Từ tham gia các diễn đàn quốc tế đến nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược.

Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 191/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc (mới nhất là Bahamas), trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện gồm tất cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu (G7) và 17/20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20)… 

Từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung và khép kín, đến nay Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có liên kết kinh tế sâu rộng, đã ký và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới…

Việt Nam hiện là thành viên của hầu hết tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương quan trọng. Nước ta cũng đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn, hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2008 - 2009 và 2020 - 2021), Hội nghị cấp cao ASEAN (1998, 2010 và 2020), Hội nghị cấp cao ASEM (2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC (2006, 2017), Diễn đàn Kinh tế giới về ASEAN (2018), Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều (2019), tham gia tích cực vào lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc…

Những thành tựu đối ngoại nói trên là điểm sáng trong thành tựu chung của đất nước sau 36 năm đổi mới.

Dấu mốc đối ngoại

Nhà báo Diệu Thuý: Theo Đại sứ Phạm Quang Vinh, trong hơn 36 năm qua, công tác đối ngoại của Việt Nam đã đạt được những điểm nhấn, những dấu mốc quan trọng ra sao?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Mục tiêu ưu tiên của Việt Nam trong từng giai đoạn khác nhau và còn phụ thuộc bối cảnh quốc tế. Khi đất nước đi lên thì mỗi một thời điểm, năng lực và vị thế của Việt Nam cũng khác nên nhìn lại hơn 36 năm đổi mới từ 1986 đến nay có thể thấy: 

Khoảng 10 năm bắt đầu từ 1986 là câu chuyện chúng ta bứt phá ra khỏi thế bị bao vây, cấm vận. Giai đoạn đổi mới mọi mặt thì nhiệm vụ quan trọng nhất đặt ra cho đối ngoại là phá thế bao vây. Sang đến những năm 1991 - 1995 là một loạt thành tựu như bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, tham gia ASEAN và thiết lập quan hệ với Mỹ, mở rộng quan hệ với các châu lục và đến việc thiết lập khuôn khổ quan hệ ngoại giao với tất cả các nước trong khu vực, những đối tác chủ chốt đồng thời cũng là các nước lớn, và các trung tâm lớn.

Từ “thêm bạn bớt thù”, chúng ta tiến đến làm bạn với tất cả các nước. Từ tham gia và đóng góp tích cực vào công việc quốc tế thì gần đây là đóng góp một cách có trách nhiệm trong những câu chuyện quốc tế.

Nếu tính từ khoảng năm 1994 - 1995 cho đến nay, trong nỗ lực tham gia vào quan hệ quốc tế thì có mấy điểm: Thứ nhất là làm sâu sắc hơn khuôn khổ hợp tác về mặt song phương của nước ta với tất cả các nước. Thứ hai là tham gia ngày càng sâu rộng hơn, ngày càng toàn diện hơn vào các thể chế đa phương ở tầm toàn cầu cũng như tầm khu vực. Thứ ba là hội nhập của Việt Nam đi từng bước, lúc đầu là hội nhập kinh tế rồi sang hội nhập trên nhiều lĩnh vực và đến ngày nay là chủ trương hội nhập toàn diện và sâu rộng.

Đại sứ Phạm Quang Vinh

Tư tưởng đối ngoại của Đảng là nhất quán. Nguyên tắc đối ngoại của Đảng là nhất quán nhưng trong mỗi thời điểm chúng ta đã vận dụng linh hoạt để ngày càng phát huy được vai trò của mình trên trường quốc tế, tạo ra vị thế mới cho đất nước. Chúng ta cũng tranh thủ khuôn khổ hợp tác quốc tế để tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định và tranh thủ những nguồn lực phục vụ cho phát triển. Và chúng ta chủ động tham gia đóng góp một cách có trách nhiệm vào những công việc chung của thế giới, 

Tôi cho rằng, chủ trương của Đảng đã được vận dụng và định hướng cho đối ngoại  Việt Nam trong các giai đoạn khác nhau và tạo ra những thành tựu to lớn.

Thích ứng với tình hình mới

Nhà báo Diệu Thuý: Xin ông chia sẻ về những nội dung mới về công tác đối ngoại được nêu tại Đại hội Đảng lần thứ XIII để đối ngoại Việt Nam thích ứng với yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới?

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân: 

Về đánh giá, dự báo tình hình thế giới:  

Đại hội XIII khẳng định hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, song nhấn mạnh các xu thế này đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn do “thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo”; Châu Á - Thái Bình Dương có vai trò ngày càng quan trọng, nhưng chỉ rõ đây là khu vực “tiềm ẩn nhiều bất ổn”… 

Đảng nhận định tác động của đại dịch Covid-19 sẽ còn kéo dài, “làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới”. 

Đưa việc tranh thủ thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào nội hàm quan điểm phát triển đất nước, xác định rõ “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo” là một định hướng lớn trong Chiến lược phát triển đất nước đến 2030.

Nêu rõ tình hình thế giới "đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn", đòi hỏi tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, dự báo đúng tình hình, chủ động trước mọi tình huống. Do đó, vai trò của đối ngoại càng quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề, nhất là vai trò tiên phong trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước.

Về mục tiêu đối ngoại:

Đại hội XIII khẳng định "bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc", chỉ ra nguyên tắc chung là phải luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể. Nhưng không có nghĩa nước ta theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ mà phải "trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi", cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đối ngoại:

Lần đầu tiên, Đại hội XIII xác định rõ vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại trong "tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước". 

Việc khẳng định vai trò tiên phong của đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XIII là bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng 

Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng: Đây là định hướng bao trùm của đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. 

Đại hội XIII đề ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột. Đây là lần đầu tiên 3 trụ cột đưa vào văn bản Nghị quyết Đại hội gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Tư tưởng chỉ đạo nhất quán

Nhà báo Diệu Thuý: Tháng 12/2021, lần đầu tiên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Xin Đại sứ Phạm Quang Vinh làm rõ một số nội dung lớn liên quan đến công tác đối ngoại mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu trong phát biểu chỉ đạo tại hội nghị?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Tại sao đây là lần đầu tiên mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư triệu tập hội nghị đối ngoại quốc. Đó là câu chuyện triển khai Nghị quyết Đại hội XIII, là quyết định một giai đoạn, thời kỳ phát triển mới của Việt Nam bao gồm phát triển trong nước cũng như định hướng về đối ngoại. 

Thứ hai là hội nghị diễn ra trong bối cảnh thế giới rất nhiều phức tạp, đan xen nhiều cơ hội. Từ dịch bệnh làm đảo lộn thế giới, ảnh hưởng đến quản trị toàn cầu cũng như lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội. Cạnh tranh nước lớn phức tạp hơn rất nhiều. Làm sao tránh bị rơi vào bẫy cạnh tranh hay mắc kẹt chọn bên, rồi những thách thức an ninh phi truyền thống khác. 

Phát triển khoa học công nghệ đang tạo ra những cơ hội rất lớn nhưng nếu không bắt kịp với xu thế mới này thì rõ ràng sẽ tụt hậu xa. Việc thích ứng với biến đổi khí hậu cũng vậy, khi tạo ra những ngành kinh tế mới, cơ hội hợp tác mới rất lớn như là kinh tế xanh, tài chính xanh, đầu tư xanh, năng lượng xanh, hạ tầng xanh… 

Tất cả diễn ra vào đúng lúc vị thế của Việt Nam đã tăng, năng lực của Việt Nam đã tăng, và nhiệm vụ cũng như khát vọng phát triển đến 2030 là rất lớn. 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến nhiều điểm nhưng những điểm quan trọng nhất mà người làm đối ngoại cần phải nhận thức rất sâu sắc. Đó là: Tư tưởng chỉ đạo nhất quán: Đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập quốc tế, làm bạn và là thành viên tích cực và có trách nhiệm cộng đồng quốc tế… Điều này đúc kết cả một lịch sử phát triển đối ngoại của đất nước nhưng phải được soi trong bối cảnh mới.

Thứ hai là liên quan đến nguyên tắc chỉ đạo về mặt đối ngoại. Đó là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia nhưng trên cơ sở các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Thứ ba là phương hướng, nhiệm vụ của đối ngoại. Đó là triển khai đồng bộ và hiệu quả.

Nói đơn giản và quan trọng nhất thì trên thực tế có 3 nhiệm vụ của đối ngoại mà thời kỳ nào cũng có nhưng vào giai đoạn hiện nay với những thuận lợi mới, phức tạp mới (mà mặt phức tạp nhiều hơn) thì cần vận dụng thế nào. Thứ nhất là tạo ra môi trường thuận lợi cho hòa bình, an ninh và phát triển của Việt Nam. Thứ hai là để phục vụ cho phát triển phải tranh thủ được nguồn lực từ bên ngoài. Ta có chủ trương sắp tới phải phát triển mang tính bền vững, mang tính chất lượng cao hơn, áp dụng được khoa học công nghệ nhiều hơn, chuyển đổi số chuyển đổi xanh… thì bây giờ đối ngoại phải phục vụ, tranh thủ các nguồn lực, bảo đảm sự phát triển mới của Việt Nam có chất lượng cao hơn, bền vững hơn và phục vụ tốt hơn cho người dân Việt Nam cũng như bảo vệ môi trường.

Tiếp đến là nâng cao vị thế Việt Nam. Chúng ta phải nhất quán về mặt đường lối, chính sách đối ngoại, tham gia vào quan hệ quốc tế dựa trên những nguyên tắc của mình và nguyên tắc luật pháp quốc tế thì lúc đó mới tạo niềm tin và tin cậy của bạn bè. Thứ hai là tham gia vào đóng góp vào việc hợp tác giải quyết các vấn đề chung của thế giới, của khu vực và trong đó có ảnh hưởng đến cả Việt Nam như hòa bình, ổn định các khu vực như là các thách thức về môi trường, về biến đổi khí hậu, về dịch bệnh. Chúng ta tham gia vào xây dựng luật chơi, xây dựng các chuẩn mực ứng xử ở khu vực và quốc tế. 

Chủ động và dẫn dắt

Nhà báo Diệu Thuý: Trong giai đoạn khó khăn vì đại dịch Covid-19, ngành ngoại giao Việt Nam và các cán bộ làm công tác đối ngoại nói chung đã làm gì, nỗ lực như thế nào để đảm bảo không “đứt gãy” và tiếp tục thúc đẩy, tăng cường quan hệ của Việt Nam với nhiều đối tác, tích cực, chủ động tham gia các thể chế đa phương?

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân: Chúng ta thấy rất rõ là chính trong thời điểm tình hình thế giới căng thẳng, đại dịch Covid-19, cạnh tranh Mỹ Trung, bất ổn chính trị ở nhiều quốc gia thì chúng ta được giao đảm nhận hai nhiệm vụ quan trọng là Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam đảm nhận thành công hai vai trò này, được khu vực và thế giới đánh giá cao. 

Về nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2020: Việt Nam đã chứng minh sự thành công và hiệu quả trong việc dẫn dắt ASEAN trong bối cảnh đầy thử thách. Việt Nam dẫn dắt ASEAN cùng thoát khỏi đại dịch trên cơ sở lợi ích tương đồng và hợp tác, không bị sa đà vào cạnh tranh và chính trị vị kỷ. 

ASEAN gắn kết ở một mức độ cao hơn, vươt qua khó khăn, duy trì đoàn kết, thống nhất, vượt qua sức ép, hạn chế bị lôi kéo, chia rẽ; Từng bước duy trì đồng thuận thường trực; Chấp nhận thử thách duy trì sự cân bằng giữa các cường quốc kinh tế, bảo đảm quan hệ đối tác với các cường quốc kinh tế là hợp tác kinh tế cùng có lợi. 

Về nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc: Chúng ta đã chuyển tải thông điệp mạnh mẽ về một Việt Nam đổi mới, chuyển mình từ 1 nước nhận hỗ trợ trở thành một đối tác quan trọng, đóng góp tích cực tại Liên hợp quốc và công việc chung của cộng đồng quốc tế. 

Đại sứ Phạm Quang Vinh - Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân

Thứ hai là đóng góp thực chất, thiết thực vào công việc của Hội đồng Bảo an: Việt Nam tham gia bàn thảo, tìm giải pháp cho tất cả các vấn đề trong chương trình nghị sự Hội đồng Bảo an ở tất cả các khu vực, từ các xung đột ở châu Phi tới khủng hoảng nhân đạo ở Trung Đông, cũng như các chủ đề quan trọng như chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, bảo vệ thường dân trong xung đột vũ trang, an ninh biển, biến đổi khí hậu, hay ứng phó với đại dịch. 

Thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, tích cực, trách nhiệm, kiên trì lập trường nhất quán tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, nhất là tôn trọng độc lập, chủ quyền, nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ, giải quyết hòa bình tranh chấp… 

Có cách thức giải quyết hợp lý, hợp tình, đầy tinh thần trách nhiệm và giàu tính nhân văn, linh hoạt, cân bằng trong ứng xử, luôn nỗ lực tìm kiếm và tạo dựng đồng thuận, tạo không khí thuận lợi cho trao đổi tại Hội đồng Bảo an.

Thứ ba là tạo dấu ấn với cách tiếp cận các vấn đề với tinh thần nhân văn, hướng tới người dân, xuất phát từ kinh nghiệm của Việt Nam.

Qua thành công, nhân dân ngày càng tin tưởng vào đường lối đối ngoại đúng đắn; cộng đồng quốc tế ngày càng tín nhiệm và kỳ vọng Việt Nam tiếp tục đóng góp quan trọng hơn vào giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực. Bên cạnh đó có đội ngũ cán bộ đối ngoại nói chung, đối ngoại đa phương nói riêng, ngày càng trưởng thành, vững vàng hơn về bản lĩnh, phẩm chất, kinh nghiệm, trình độ và năng lực.

Thúc đẩy đối ngoại tiên phong

Nhà báo Diệu Thuý: Khi dịch bệnh từng bước được kiểm soát, công tác đối ngoại đã linh hoạt ra sao để phục vụ công cuộc đẩy mạnh phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, thưa Đại sứ Phạm Quang Vinh? 

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Khi dịch bệnh nảy sinh, chúng ta đã kịp thời và nhanh chóng thích ứng để xử lý tình huống cấp bách, từng bước kiểm soát được đại dịch và mở cửa, chúng ta chủ động và thúc đẩy đối ngoại tiên phong. 

Lúc này chúng ta chủ động đẩy mạnh những chủ trương đối ngoại của Đại hội XIII để làm sao đối ngoại thực sự là ngoại giao tiên phong, trước hết là phục vụ cho những định hướng lớn về phát triển của quốc gia cũng như là về đối ngoại mà Đại hội XIII đã đề ra.

Nhìn lại nửa sau năm 2022, Việt Nam có hàng loạt chuyến thăm cấp cao đến khu vực và các đối tác chủ chốt. Lãnh đạo các nước cũng đến Việt Nam. Điều đó cho thấy, ngay khi đại dịch được kiểm soát, chúng ta nhanh chóng thúc đẩy đối ngoại để củng cố các quan hệ đã có, đặc biệt với khu vực và với các đối tác chủ chốt.

Thứ hai là tranh thủ mọi nguồn lực để thúc đẩy cho phục hồi và phát triển kinh tế. Trong mọi chuyến thăm, làm việc Việt Nam đều nhấn mạnh về việc nối lại và bảo đảm tính bền vững của các chuỗi cung ứng, để dù có những cuộc khủng hoảng xảy ra thì vẫn duy trì được hoạt động giao thương, hợp tác kinh tế, thương mại với nhau. 

Thứ ba, tranh thủ những xu hướng kinh tế phát triển mới vẫn hay gọi là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, sạch. Trong giai đoạn vừa qua, ở các chuyến thăm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước đều thúc đẩy mạnh mẽ việc này. 

Thứ tư, cho thấy rất rõ là chúng ta tổ chức những hoạt động đối ngoại dồn dập, khẩn trương và đồng bộ, kết hợp được cả khu vực và toàn cầu, kết hợp được cả song phương và đa phương… 

Nhà báo Diệu Thuý: Năm 2022 cũng là năm kỷ niệm 55 năm thành lập ASEAN và kỷ niệm 27 năm Việt Nam gia nhập ASEAN. Như vậy theo Đại sứ Phạm Quang Vinh, trong 27 năm gia nhập ASEAN, sự chủ động, tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam được thể hiện thế nào? 

Đại sứ Phạm Quang Vinh: ASEAN đã trải qua giai đoạn chuyển đổi và ngày càng lớn mạnh hơn, Việt Nam cũng vậy nên năng lực đóng góp của Việt Nam trong các câu chuyện khu vực và của ASEAN cũng tăng lên.

Khi Việt Nam mới gia nhập ASEAN thì ASEAN mới chỉ có Hiệp định thương mại tự do cộng với một số tiêu chí. Nhưng ngày nay ASEAN đã có hiến chương, có cộng đồng gắn kết 3 trụ cột và mở rộng rất nhiều quan hệ của mình với các đối tác bên ngoài.

ASEAN đã phát triển một cách vững mạnh, trở thành một thể chế được thế giới đánh giá cao và thực sự đi vào cộng đồng, có những đóng góp quan trọng đối với hòa bình và an ninh. ASEAN đã phát huy được vai trò trung tâm không chỉ kết nối 10 nước ASEAN để cùng đi vào cộng đồng mà còn gắn kết các đối tác lớn khác ở trên thế giới cùng tham gia vào xây dựng khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển.

Việt Nam được đánh giá cao khi đóng góp tích cực trong ASEAN. Trong những chương trình nghị sự của khối, chúng ta đều có tiếng nói đóng góp. Đặc biệt, ba lần làm Chủ tịch ASEAN thì cả 3 lần Việt nam đều để lại những dấu ấn quan trọng với định hướng phát triển.

Vai trò ngày một gia tăng của ASEAN cũng đòi hỏi các nước thành viên phải nhìn và kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích khu vực. Chính Việt Nam là nhân tố rất quan trọng trong thúc đẩy tham vấn và đồng thuận để có thể duy trì được mức độ nhất trí của ASEAN. 

Việt Nam là nhân tố quan trọng và đóng góp tiếng nói chung của ASEAN về những vấn đề quốc tế nổi bật ở khu vực này, ví dụ xây dựng cộng đồng, các nước lớn tham gia hợp tác. Dù họ cạnh tranh cũng phải dựa trên luật pháp quốc tế và những thỏa thuận đã có với ASEAN…

Nhà báo Diệu Thuý: Như vậy theo ông, trong bối cảnh thế giới đang diễn biến rất phức tạp hiện nay thì cùng với ASEAN, Việt Nam sẽ cần phải làm những gì để đảm bảo được những nguyên tắc mà ASEAN đã đặt ra liên quan đến hòa bình, hợp tác phát triển ở khu vực, đảm bảo quan hệ hợp tác với các nước lớn nhưng không chọn bên mà chọn tiếng nói của lẽ phải dựa trên luật pháp quốc tế và lợi ích chung?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chặng đường đi tới của ASEAN khá phức tạp. Một là cạnh tranh nước lớn và những nước lớn đều là đối tác quan trọng của Việt Nam và của ASEAN. Những thách thức ở khu vực này vẫn tiếp tục tồn tại cả về truyền thống và phi truyền thống, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh, an toàn hàng hải… các nước phải cùng chia sẻ quan điểm với nhau dù có khác biệt. ASEAN đi vào xây dựng cộng đồng mỗi ngày ở một nấc thang cao hơn đòi hỏi mỗi quốc gia cũng phải phấn đấu cao hơn, cùng nhau đề ra chương trình hành động và cùng nhau tiến tới chất lượng cao hơn. ASEAN phải có được đồng thuận để cùng hướng tới điều này.

Đứng trước sức ép cạnh tranh, ASEAN không chọn bên, mà lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực, chọn luật pháp quốc tế và nguyên tắc Hiến chương Liên hợp quốc. ASEAN làm sao chơi được những quốc gia dù họ đang cạnh tranh với nhau. Trên thực tế trong thời gian, 2021 và 2022, ASEAN nâng cấp quan hệ với 4 đối tác từ đối tác chiến lược lên đối tác chiến lược toàn diện. Đó là Úc, Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ. Những nước này đều có cọ sát và trả đũa nhau. Tôi nghĩ rằng là trong thời gian tới sẽ có một loạt nước nữa có thể nâng tầm quan hệ với ASEAN. 

Điều nữa là ASEAN phải chủ động trong vai trò của mình với tư cách là cơ chế duy nhất ở khu vực có thể kết nối được với tất cả đối tác lớn trên thế giới. ASEAN phải phát huy mạnh mẽ những cơ chế kết nối của mình để qua đó cùng với các nước lớn xây dựng chương trình nghị sự, xây dựng chương trình hành động chung và khi có khác biệt họ xử lý các khác biệt thông qua đối thoại. 

Tiếp đến là luật pháp quốc tế, không chỉ ASEAN mà tất cả các đối tác của ASEAN đều cam kết là tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, giải quyết hòa bình các tranh chấp và ứng xử với nhau trên cơ sở tôn trọng bình đẳng và cùng có lợi. Muốn vậy, ASEAN trong tham vấn và thương lượng nội bộ của mình phải luôn luôn duy trì được đoàn kết.

Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

Nhà báo Diệu Thuý: Thưa Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, đồng thời triển khai toàn diện trên mọi lĩnh vực cũng như phương diện của đất nước, ông có chia sẻ gì về tầm nhìn chiến lược này?

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân: Bảo vệ Tổ quốc đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ thời xa xưa, ông cha ta luôn đề ra kế sách “sâu rễ, bền gốc” giữ yên bờ cõi, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. 

Cùng với đó, tổ tiên ta đã thực hiện nhiều chính sách làm cho “quốc phú, binh cường”, khi đất nước thanh bình thì khuyến khích nhân dân tích cực tham gia lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, tạo sức mạnh tổng hợp đất nước, làm cơ sở để xây dựng một quân đội vững mạnh. Khi đất nước có “biến” thì ưu tiên tập trung cho việc “binh”, dập tắt chiến tranh, bảo vệ hòa bình… 

Trong thời đại Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật, tính tất yếu khách quan phải bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. 

Thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội VI đến nay, các văn kiện, nghị quyết đại hội luôn xác định phải nâng cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu hành động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống. 

Trong đó, Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã xác định: Phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố. 

Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây đột biến”. 

Đại hội lần thứ XIII tiếp tục phát triển, nhấn mạnh, làm sâu sắc quan điểm, tư tưởng chỉ đạo “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” trong điều kiện mới. Đảng ta chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến”. 

Nội dung, bản chất bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bảo vệ Tổ quốc “từ sớm” là sớm về tư duy, nhận thức; sớm có quan điểm chỉ đạo, phương châm hành động; sớm trong nhận diện nguy cơ; sớm có phương án, lực lượng, phương tiện để bảo vệ. 

Bảo vệ Tổ quốc “từ xa” là chủ động, cảnh giác, sớm phát hiện, triệt tiêu các nhân tố bất lợi từ xa về không gian địa lý, xa về thời gian; phát hiện, triệt tiêu ngay từ nguyên nhân, điều kiện hình thành nguy cơ đe dọa, uy hiếp. Chủ động phân tích, dự báo, đấu tranh, làm thất bại từ bên ngoài mọi âm mưu, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc liên quan đến tất cả các lĩnh vực. Từ góc độ đối ngoại, nói về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, trước hết là vững bên trong, ổn bên ngoài và lấy phòng ngừa là chính. 

Ổn bên ngoài trước hết là môi trường xung quanh - quan hệ với các nước, với khu vực, đối tác chủ chốt là làm sao đan xen lợi ích, tạo được những khuôn khổ quan hệ, khuôn khổ hợp tác ổn định, lâu dài trên cơ sở các nguyên tắc là tôn trọng độc lập, chủ quyền, giải quyết hòa bình, tranh chấp, tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc.

Thứ hai là chủ trương là giải quyết các tranh chấp bằng đối thoại và biện pháp hòa bình. Chúng ta đã áp dụng trong việc xử lý câu chuyện về biển Đông cũng như nhiều vấn đề về kinh tế, thương mại, đầu tư, biên giới lãnh thổ…

Thứ ba là phát hiện được các nguy cơ khủng hoảng, bởi thế giới tồn tại những nguy cơ khủng hoảng, bài học của các quốc gia khác có thể thành bài học cho mình. An ninh về năng lượng, an ninh lương thực, an ninh về tài chính nếu bất ổn có khi dẫn đến tình huống phức tạp về an ninh chính trị. 

Chắc chắn đối ngoại cũng sẽ là một thành tố rất quan trọng trong câu chuyện bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Nhà báo Diệu Thuý: Thời gian qua, cùng với đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhà nước và ngoại giao nhân dân, theo Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân, công tác đối ngoại quốc phòng đã chủ động thực hiện rõ việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ ra sao?

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân: Đối ngoại quốc phòng đã góp phần tăng cường hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau và tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.

Hiện nay, chúng ta có quan hệ với 191 quốc gia, trong số đó có quan hệ quốc phòng hơn 100 quốc gia. Chúng ta tham gia các diễn đàn quân sự, quốc phòng ở khu vực và trên thế giới. Ví dụ ở khu vực là ADMM, ADMM+; Tư lệnh Lục quân ASEAN, Tư lệnh Hải quân ASEAN, Tư lệnh Không quân ASEAN, Tình báo ASEAN, NADI (Các viện Chiến lược quốc phòng ASEAN), Hội nghị Giám đốc học viện quốc phòng ASEAN; Diễn đàn An ninh khu vực ARF. Tham dự đối thoại Shangri La, diễn đàn Hương Sơn – Bắc Kinh, Hội nghị an ninh quốc tế Mockba, Hội nghị Tư lệnh Lục quân châu Á – Thái Bình Dương,  Hội nghị Quân y châu Á – Thái Bình Dương…

Đối ngoại quốc phòng đã tận dụng được các nguồn hỗ trợ, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao.

Khi ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân vào tháng 12/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “người trước súng sau”. Với quân đội, vũ khí rất quan trọng nhưng con người là quyết định. Đó là những con người có bản lĩnh, kỹ năng quân sự. Trong số gần 100 nước có quan hệ quốc phòng với chúng ta thì có tới trên 40 nước đang đào tạo nhân lực cho quân đội ta ở các trình độ, các cấp khác nhau.

Tiếp đến là chúng ta tận dụng nguồn lực về vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm cũng như trình độ quản lý tiên tiến, đẩy mạnh trao đổi tăng cường công nghệ, tăng cường nghiên cứu, tự sản xuất, tự chủ về khoa học kỹ thuật quân sự. 

Một điểm nữa không thể không nhắc đến là chúng ta xây dựng các mạng lưới quan hệ song phương, đa phương chặt chẽ.

Có thể nói, đối ngoại quốc phòng ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 

Nhà báo Diệu Thuý: Để góp phần cùng với đối ngoại Đảng và đối ngoại Nhà nước và nhân dân để thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội 13 đề ra thì công tác hợp tác quốc tế cũng như đối ngoại quốc phòng trong thời gian tới cần tập trung vào những trọng tâm nào, thưa Thiếu tướng?

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân: Cần tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và điều hành của Chính phủ, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong tình hình mới. 

Tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đối ngoại quốc phòng trong tổng thể công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 

Xác định đối ngoại quốc phòng là một trong những trụ cột để thúc đẩy quan hệ chính trị, xây dựng lòng tin với các nước. Đồng thời là diễn đàn trực tiếp để hợp tác và đấu tranh nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao uy tín, vị thế đất nước, quân đội trong khu vực và trên trường quốc tế, đóng góp tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong khu vực và trên toàn thế giới. Tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường tiềm lực quốc phòng, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu dự báo và tham mưu chiến lược về đối ngoại quốc phòng. 

Nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng song phương, đa phương, đưa quan hệ hợp tác với các nước đi vào chiều sâu, thực chất. 

Thực hiện tích cực, có hiệu quả Chỉ thị số 25-CT/TW của Ban Bí thư “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương trong tình hình mới”. 

Tích cực, chủ động nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại. 

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đối ngoại quốc phòng, bảo đảm phù hợp luật pháp, thông lệ quốc tế và đồng bộ, thống nhất với văn bản pháp luật đối ngoại quốc gia, phù hợp với đặc điểm hoạt động đối ngoại quốc phòng, đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài. Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, phẩm chất, đạo đức, lối sống lành mạnh, trong sạch, có kiến thức toàn diện, thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu mở rộng và nâng tầm đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới.

Thách thức đan xen cơ hội

Nhà báo Diệu Thuý: Xin Đại sứ Phạm Quang Vinh cho biết, bối cảnh thế giới năm 2022 đặt ra những thuận lợi và khó khăn như thế nào về công tác đối ngoại của Việt Nam?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: 

Thứ nhất, đó là cạnh tranh nước lớn vào phân cực chính trị, đặc biệt là cạnh tranh Mỹ - Trung. Rồi thêm cả Nga với EU. 

Thứ hai là khủng hoảng Nga – Ukraine và những hệ lụy của nó. Cuộc khủng hoảng này không chỉ giới hạn đến an ninh và địa chiến lược ở châu Âu mà có tác động nhiều chiều đến thế giới và khu vực cả về an ninh và kinh tế. Riêng về kinh tế, là sự đứt gãy chuỗi cung ứng từ khủng hoảng năng lượng, lương thực. 

Người ta còn phải nhìn nhận lại từ sự tùy thuộc lẫn nhau. Hợp tác cùng có lợi là cơ sở cho cả hòa bình lẫn kinh tế thì khi có khủng hoảng xảy ra thì lại trở thành lệ thuộc. Vì vậy, cần phải đa dạng hóa ra sao để tránh sự phụ thuộc vào nơi, kể cả đó là nguồn cung năng lượng, lương thực hay là những lĩnh vực khác.

Thứ ba là dịch bệnh. Năm 2022 có những tín hiệu thuận lợi, nhất là nửa sau năm nay về việc có thể kiểm soát được dịch Covid-19. Nhưng trên thực tế những hệ lụy của dịch bệnh còn rất lớn. Đó là thời gian rất dài ngưng trệ về sản xuất và đời sống xã hội, khiến nhiều nước phải đưa ra các gói kích cầu để đầu tư, phục hồi sản xuất. 

Nhìn lại năm qua trên thế giới thì lạm phát gia tăng, đứt gãy chuỗi cung ứng, bất ổn trong kinh tế vĩ mô, chọn lựa khó khăn giữa kiểm soát lãi suất với bảo đảm phục hồi, kiểm soát lạm phát. Chưa kể còn là sự chuyển dịch địa chiến lược, nhất là cạnh tranh nước lớn, về châu Á - Thái Bình Dương.

Nhưng thách thức lại đan xen cơ hội và không tách biệt nhau. Trong mỗi vấn đề nảy sinh đều có những cơ hội. Ví dụ, cạnh tranh nước lớn gia tăng thì phức tạp là sức ép chọn bên nhưng đồng thời các nước lớn lại gắn kết với khu vực, tạo điều kiện cho Việt Nam và Đông Nam Á thúc đẩy hợp tác với các đối tác. Nhiều sáng kiến về hợp tác đưa ra như hợp tác về chính trị, an ninh, kinh tế, và lựa chọn thế nào để không bị kẹt vào bẫy cạnh tranh.

Thứ hai là thách thức về biến đổi khí hậu rất lớn. Chúng ta cũng đặt ra những cam kết rất cao để bảo đảm môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Cùng với đó là sự xuất hiện của những ngành kinh tế mới, tài chính xanh, đầu tư xanh, năng lượng xanh, hạ tầng xanh. 

Tiếp đến là dịch bệnh, cuộc khủng hoảng an ninh quân sự dẫn đến đứt gãy hoặc dịch chuyển chuỗi cung ứng. Nếu đảm bảo những chuỗi cung ứng chất lượng tốt, thì đó lại là cơ hội. 

Hay là cách mạng khoa học công nghệ đặt ra các yêu cầu rất lớn về chuyển đổi số và nếu tụt hậu thì sẽ tụt hậu rất dài so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây. Nhưng bắt kịp lại là cơ hội. 

Trong bối cảnh đó, Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để vừa kiểm soát được những thách thức, vừa tranh thủ được nhiều cơ hội. Chẳng hạn, chúng ta tập trung vào ứng phó với đại dịch, tranh thủ được vắc xin, từ đó mở cửa sớm để tận dụng các nguồn lực bên ngoài, thúc đẩy quan hệ bên ngoài mà trước hết là kết nối lại các chuỗi cung ứng.

Chúng ta có một loạt quan hệ với các nước ở cả khu vực, thế giới và đối tác chủ chốt cả về chính trị, an ninh và kinh tế. Phát huy các thỏa thuận về thương mại tự do với các nước và khu vực lúc này là cơ hội. Cam kết chuyển đổi số, chuyển đổi xanh của chúng ta rất lớn. Nếu thực hiện được sẽ tranh thủ được những nguồn lực lớn cho phát triển ở một tầng nấc cao hơn.

Vào lúc này càng phải phát huy độc lập, tự chủ hội nhập, đa dạng hóa, đa phương hóa; nhấn mạnh luật pháp quốc tế, lợi ích quốc gia ra sao để chúng ta không bị kẹt vào bẫy cạnh tranh nước lớn mà vẫn có thể chơi được với họ để tranh thủ cả về môi trường an ninh lẫn môi trường cho phát triển. 

Nhà báo Diệu Thuý: Theo ông, thành tựu đối ngoại của Việt Nam trong năm 2022 là những gì? 

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chúng ta bước đầu kiểm soát được đại dịch và đây là cơ sở rất quan trọng cho đối ngoại Việt Nam. Từ thích ứng, ta chủ động thúc đẩy đối ngoại với vai trò tiên phong nhằm tạo ra môi trường hòa bình, phục vụ cho an ninh và phát triển của đất nước.

Chúng ta đã triển khai đồng bộ các hoạt động đối ngoại cấp cao và ở mọi cấp, đặc biệt là với những đối tác chủ chốt để tạo ra những khuôn khổ hợp tác lâu dài, ổn định về mặt chính trị, từ đó tạo thuận lợi cho các mặt khác. Rất nhiều nước đánh giá cao vai trò của Việt Nam.

Chúng ta đã ứng xử tốt trong quan hệ với các nước lớn và với khu vực để xử lý vấn đề cạnh tranh nước lớn và các phức tạp nảy sinh một cách phù hợp với luật pháp quốc tế và hiến chương Liên hợp quốc cùng với chính sách nhất quán về đối ngoại và lợi ích của chúng ta. 

Thiếu tướng GS.TS Nguyễn Hồng Quân: Chúng ta tiếp tục phát huy vai trò đóng góp tích cực, có trách nhiệm tại các cơ chế diễn đàn khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN hay hợp tác Tiểu vùng Mekong. 

Trong năm 2022, Việt Nam được bầu vào nhiều vị trí tại các tổ chức quốc tế quan trọng như: Phó chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77; Thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025; Thành viên Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO nhiệm kỳ 2022 - 2026.

Ngoại giao kinh tế góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút nhiều nguồn lực bên ngoài, phục vụ tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển bền vững đất nước.

Ngoại giao văn hóa quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa và thành tựu phát triển của Việt Nam ra thế giới.

Nhà báo Diệu Thuý: Thưa Đại sứ Phạm Quang Vinh, ông có những nhận định gì về thời cơ cũng như thách thức đối với đối ngoại Việt Nam trong năm 2023? 

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Có lẽ, những gì phức tạp đang diễn ra trong năm 2022 sẽ tiếp tục trong 2023. Trong năm qua, chúng ta nói đến địa chính trị và cạnh tranh nước lớn chắc chắn sẽ phức tạp hơn. Cuộc khủng hoảng Nga - Ukraine diễn biến rất nhiều chiều mà chúng ta chưa lường trước được. Rồi về kinh tế, khi thế giới bắt đầu có thể kiểm soát được lạm phát thì chuyện phục hồi sẽ ra sao? Nối lại chuỗi cung ứng và thúc đẩy các hợp tác quốc tế thế nào? Tất cả vẫn còn là ẩn số.

Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong mấy năm đại dịch dù đóng cửa nhưng đã có những biểu hiện cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Vậy khi năm 2023 mở cửa trở lại, hợp tác gia tăng thì rủi ro cạnh tranh cũng lớn hơn rất nhiều. Khu vực này liên quan trực tiếp đến chúng ta và ASEAN, liên quan đến môi trường hợp tác và an ninh, liên quan đến biển Đông, Mekong…

Về cơ hội thì cũng có rất nhiều và phụ thuộc vào chính môi trường, khả năng của Việt Nam. Cạnh tranh là rất lớn, đồng thời cho phép chúng ta có thể chơi với nhiều bên và nâng tầm tiếng nói, vị trí địa chiến lược của Việt Nam và ASEAN. 

Chúng ta mở cửa từ sớm, kiểm soát được dịch bệnh nên vừa nối lại được các quan hệ về chính trị nhưng đồng thời cả về kinh tế nhất là nửa cuối 2022. Việc này sẽ tạo đà mới cho Việt Nam trong tiếp tục thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư.

Chúng ta cũng tranh thủ dành những nguồn lực và đầu tư chính sách cho các ngành kinh tế tương lai về số, về xanh sạch. Nghĩa là cũng sẽ thu hút được sự đầu tư của thế giới ở lĩnh vực này. 

Cơ hội luôn đan xen với thách thức. Các nước trong khu vực đều muốn đón đầu nhưng không phải ai cũng làm được. Chúng ta đã đón được một phần thì càng cần nỗ lực để đón được những cơ hội lớn hơn. Cá nhân tôi suy nghĩ rằng, bối cảnh thế giới và khu vực 2023 sẽ tiếp tục chiều hướng phức tạp hơn rất nhiều nhưng khả năng Việt Nam sẽ ở vị trí thuận lợi hơn, có thể tranh thủ được nhiều cơ hội hơn và chúng ta cần nắm bắt những cơ hội đó. 

Phạm Huyền, Thu Hằng, Bạt Tuấn, Hoàng Hiệp, Duy Tuấn, Minh Khuê và nhóm PV