Cuối tuần trước, một đoàn cán bộ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) do ông Paulo Medas làm Trưởng đoàn đã có các cuộc thảo luận với các cơ quan chức năng Việt Nam từ ngày 11–24/6/2025.

Đoàn đã trao đổi quan điểm với Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc, lãnh đạo của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Quốc hội và các cơ quan chức năng khác. Đoàn cũng gặp đại diện từ khu vực tư nhân, các cơ quan nghiên cứu và tư vấn chính sách, cùng các bên liên quan.

IMF 2.jpg
Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc đã tiếp và làm việc với bà Rupa Duttagupta, ông Paulo Medas và các thành viên Đoàn Điều IV của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Ảnh: Chinhphu.vn

Đà tăng trưởng tích cực và tác động của thuế đối ứng

Kết thúc đợt làm việc, ông Medas cho rằng kinh tế Việt Nam đã bật trở lại mạnh mẽ trong năm 2024, đạt mức tăng trưởng 7,1% nhờ xuất khẩu mạnh, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có khả năng chống chịu tốt và các chính sách mang tính hỗ trợ. Đà tăng trưởng này tiếp diễn trong quý đầu tiên năm 2025, với hoạt động kinh tế tiếp tục mở rộng ở tốc độ 6,9% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát. Cán cân vãng lai thặng dư ở mức kỷ lục 6,6% GDP trong năm 2024.

Triển vọng của nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào kết quả đàm phán thương mại và bị hạn chế bởi sự bất định tăng cao trên toàn cầu về chính sách thương mại và tăng trưởng kinh tế.

Các dự báo của đoàn dựa trên Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF tháng 4/2025 – giả định rằng mức thuế quan cao sẽ thực sự có hiệu lực từ quý III. Trong kịch bản đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo sẽ chậm lại và chỉ đạt 5,4% cho cả năm 2025, và tiếp tục giảm tốc hơn nữa trong năm 2026. Tuy nhiên, nếu căng thẳng thương mại toàn cầu dịu đi, thì triển vọng cho nền kinh tế Việt Nam sẽ cải thiện đáng kể.

Tác động của thuế đối ứng từ Hoa Kỳ rõ ràng là vấn đề then chốt đến tăng trưởng của Việt Nam trong năm nay.

Cảnh báo của IMF tương đồng với các dự báo của các định chế tài chính. Fitch Ratings dự báo: nếu thuế đối ứng được áp dụng, tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ giảm từ 7,1% năm 2024 xuống còn 5,6% năm 2025 và 5,3% năm 2026.

Theo dự báo của Bloomberg, GDP của Việt Nam có thể giảm khoảng 8,9% vào năm 2030, tức là giảm 1,5–2%/năm.

Aureus Sigma Capital cho rằng GDP sẽ giảm 1,4–2,0% so với kịch bản cơ sở, tương đương mất khoảng 6,7–9,5 tỷ USD trong năm đầu tiên.

VPBankS dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2025 có thể giảm trung bình 1,78%/năm trong 5 năm tới. BMI Research cho rằng tăng trưởng có thể thấp hơn dự báo đến 3 điểm %, nghĩa là chỉ đạt khoảng 4,4% (so với mức 7,4% dự kiến).

Trước đó, IMF dự báo tăng trưởng Việt Nam năm 2025 đạt 5,2%, World Bank 5,8%, ADB 6,6%.

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026.

Từ các dự báo trên, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt – giảng viên Bộ môn Chính sách công, Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế – ĐHQG Hà Nội, tổng kết rằng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 của các tổ chức quốc tế đã giảm nhẹ từ khoảng 6,4% vào cuối năm 2024 xuống còn khoảng 6,26% trong các báo cáo cập nhật gần đây nhất (đến tháng 5–6/2025).

Ông bổ sung thêm, mặc dù các dự báo quốc tế về tăng trưởng thường mang tính thận trọng cao trong bối cảnh có nhiều rủi ro tiềm ẩn, các báo cáo vĩ mô của VEPR trước đây nhận định: trong điều kiện thuận lợi, thường thì mức tăng trưởng thực tế cuối cùng cao hơn mức dự báo trung bình từ 1% đến tối đa 2%, còn nếu điều kiện không thuận lợi, có thể giảm từ 0,8–1,5%.

Trong khi đó, ông Medas cho rằng các rủi ro tiêu cực đang ở mức cao. Trong trường hợp căng thẳng thương mại toàn cầu tiếp tục leo thang hoặc điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt, thì xuất khẩu và đầu tư có thể bị suy yếu hơn nữa. Ở trong nước, tình trạng căng thẳng tài chính có thể tái diễn do điều kiện tài chính thắt chặt và mức độ vay nợ cao của khu vực doanh nghiệp. Ở chiều hướng tích cực, việc đạt được thỏa thuận thương mại không phân biệt đối xử và thực hiện thành công những đổi mới về cơ cấu kinh tế và cơ sở hạ tầng như dự kiến có thể thúc đẩy đáng kể tăng trưởng trong trung hạn.

Tăng cường chính sách tài khóa

Trong thông cáo báo chí của IMF, ông Medas khuyến nghị: với triển vọng kinh tế đầy bất định hiện nay, các ưu tiên chính sách nên tập trung vào giữ vững ổn định tài chính vĩ mô, đồng thời chèo chống nền kinh tế vượt qua những điều chỉnh.

Chính sách tài khóa, được hỗ trợ bởi mức nợ công thấp, nên gánh vác vai trò chủ đạo trong việc giảm nhẹ tác động ngắn hạn – đặc biệt trong các kịch bản tiêu cực. Việc đẩy nhanh thực hiện đầu tư công và củng cố lưới an sinh xã hội sẽ có ý nghĩa quan trọng.

Trong khi đó, ông cảnh báo, chính sách tiền tệ có dư địa hạn chế hơn rất nhiều, và nên kiên định tập trung vào việc giữ vững kỳ vọng lạm phát.

Việc cho phép tỷ giá biến động linh hoạt sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi nền kinh tế điều chỉnh để thích ứng với các cú sốc từ bên ngoài. Có thể cân nhắc nới lỏng tiền tệ ở mức độ nào đó trong trường hợp lãi suất toàn cầu giảm như dự kiến và lạm phát hạ nhiệt. Cần cảnh giác theo dõi và hành động kịp thời khi phát sinh áp lực lạm phát – bao gồm cả các trường hợp do cú sốc bên ngoài gây ra. Những áp lực này càng làm nổi bật tầm quan trọng của việc hiện đại hóa khuôn khổ chính sách tiền tệ nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực và vai trò neo an toàn – trong đó bao gồm cả việc thay thế cơ chế chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng bằng một khuôn khổ an toàn được cải tiến.

IMF khuyến nghị cần nỗ lực hơn nữa để tăng cường sự lành mạnh của khu vực tài chính. Để tăng cường khả năng chống chịu cho hệ thống ngân hàng, cần ưu tiên củng cố giám sát ngân hàng, xây dựng các bộ đệm vốn và thanh khoản, cải thiện hơn nữa khuôn khổ xử lý ngân hàng yếu kém.

Theo đánh giá của Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, cung tiền và tín dụng tăng mạnh so với tăng trưởng GDP gây ra những tiềm ẩn rủi ro vĩ mô và hạn chế dư địa chính sách.

Cung tiền M2 tăng trung bình 13–15%/năm, vượt xa mức tăng trưởng GDP thực tế (10–11%/năm), cho thấy dấu hiệu mất cân đối giữa dòng tiền và năng lực hấp thụ của nền kinh tế.

Dư nợ tín dụng toàn hệ thống đã đạt khoảng 130% GDP (ước tính khoảng 12 triệu tỷ đồng) – mức cao nhất trong khu vực ASEAN.

Đến cuối tháng 5/2025, tăng trưởng tín dụng đã đạt 6,52% – một mức rất cao so với cùng kỳ các năm gần đây. Trong khi đó, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% trong năm nay.

Theo ghi nhận của Tiến sĩ Việt, trụ cột đầu tư đang phục hồi tích cực.

Năm 2024, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5%; khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất (55,9%) và là động lực chính với mức tăng 7,7%.

Tăng trưởng đầu tư tiếp đà trong quý I/2025. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng 8,3%, cao hơn đáng kể so với 5,2% cùng kỳ 2024; khu vực Nhà nước dẫn đầu về mức đóng góp.

Kiên định mục tiêu 8%

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Mục tiêu này vẫn được kiên định đến nay.

Hàng loạt chính sách đã được đưa ra nhằm hoàn thành mục tiêu đó.

Trong thông cáo báo chí, ông Medas khẳng định rằng việc thực hiện chương trình cải cách đầy tham vọng bao gồm tinh gọn bộ máy, phát triển kinh tế tư nhân, cải thiện cơ sở hạ tầng – sẽ mở ra cơ hội nâng cao tăng trưởng trung hạn. Một yêu cầu căn cốt khác là tiếp tục cải cách nhằm tăng năng suất, tăng cường quản trị và cải thiện môi trường kinh doanh.

IMF 3.jpg
Các chuyên gia IMF cho rằng Việt Nam tập trung vào tinh gọn bộ máy nhằm tăng cường hiệu quả, chú trọng phát triển kinh tế tư nhân và các kế hoạch tăng quy mô đầu tư công thể hiện một bước tiến lớn. Ảnh: Chinhphu.vn

Những kế hoạch, dự định của các cơ quan chức năng cho một chương trình cải cách đầy tham vọng là bước đi rất được hoan nghênh và có thể thúc đẩy tăng trưởng trung hạn; nhưng điều mấu chốt vẫn là việc thực hiện trên thực tế.

Sự tập trung vào tinh gọn bộ máy nhằm tăng cường hiệu quả, chú trọng phát triển kinh tế tư nhân và các kế hoạch tăng quy mô đầu tư công thể hiện một bước tiến lớn. Một yêu cầu quan trọng nữa là cần xây dựng, thực hiện các cải cách cụ thể để cải thiện cơ sở hạ tầng chủ chốt cho nền kinh tế (chẳng hạn hạ tầng logistics, năng lượng), củng cố sự vận hành của các thị trường vốn, tăng cường giáo dục và đào tạo, nâng cao năng suất.

Để tối đa hóa lợi ích từ các dự án đầu tư quy mô lớn, yêu cầu rất quan trọng là phải củng cố quản lý đầu tư công và áp dụng một chiến lược tài khóa vĩ mô lành mạnh nhằm bảo vệ tốt sức khỏe tài chính công. Các nỗ lực tăng cường quản trị kinh tế – bao gồm cả củng cố cơ chế phòng chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố (AML/CFT) là việc làm cần thiết và được hoan nghênh.

Tiến sĩ Việt cũng khuyến nghị rằng các chính sách vĩ mô cần được ban hành một cách cẩn trọng, có đánh giá tác động đa chiều và có lộ trình cụ thể.

Cần phát huy tinh thần cải cách và tinh gọn thể chế theo hướng hiệu lực, hiệu quả, hiện đại, minh bạch, dễ hiểu và dễ thực thi nhằm giảm rủi ro kinh doanh và chi phí tuân thủ, chi phí ngầm.

Thúc đẩy đồng bộ tổng cung và tổng cầu – nhất là các động lực phát triển bền vững của nền kinh tế dựa trên các mô hình tăng trưởng mới, gắn với xu hướng thương mại và đầu tư toàn cầu.

Với những rủi ro ngắn hạn, cần đảm bảo dư địa chính sách để ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, hỗ trợ hoạt động kinh tế trong nước và các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.

Trong trung hạn, cần nâng cao trình độ và kỹ năng cho lực lượng lao động, phát triển khoa học – công nghệ nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh. Tăng trưởng cần dựa trên đổi mới – sáng tạo và phát triển bền vững.

Những bài học còn nguyên giá trịDư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đến cuối năm 2024 đã đạt 134% thể hiện, nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào tín dụng ngân hàng và tiềm ẩn rủi ro hệ thống.