Hôm nay, không có ngân hàng nào điều chỉnh giảm lãi suất. Nhiều khả năng lãi suất hình thành mặt bằng mới. Điều này được các chuyên gia dự báo sau khi Ngân hàng Nhà nước liên tiếp đấu thầu tín phiếu để hút tiền về.

Trong ngày 28/9, duy nhất VPBank giảm lãi suất huy động. Đây cũng là lần đầu tiên trong tháng 9 nhà băng này thực hiện giảm lãi suất.

Hiện không còn ngân hàng nào duy trì lãi suất huy động ở mức 7%/năm.

PVCombank, LPBank và VietBank duy trì lãi suất tiền gửi ở mức cao nhất thị trường là 6,8%/năm, áp dụng đối với tiền gửi online kỳ hạn 18 tháng. 

Đối với tiền gửi online kỳ hạn 12 tháng, hiện cũng chỉ còn số ít ngân hàng duy trì lãi suất trên 6%/năm (từ 6 – 6,6%/năm) gồm CBBank, PVCombank, NCB, LPBank, Dong A Bank, HDBank, Viet A Bank, BaoViet Bank, VietBank, Bac A Bank, OceanBank, SCB, và SHB. 

Lãi suất ngân hàng huy động online kỳ hạn 6 – 9 tháng mức cao nhất hiện nay chỉ còn 6,4%/năm tại PVCombank và CBBank.

Lãi suất ngân hàng huy động phổ biến nhất hiện nay lại trong khoảng từ 5,5 – 5,8%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn từ 6 tháng trở lên.

Thậm chí, ABBank còn duy trì lãi suất tiền gửi thấp hơn cả nhóm ngân hàng thương mại có vốn nhà nước (Agribank, Vietcombank, VietinBank và BIDV). Hiện lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 – 36 tháng chỉ từ 4 – 4,7%/năm.

Ngoài ABBank, một số ngân hàng thương mại cổ phần như MSB, TPBank, GPBank, Techcombank, SeABank,… cũng đang áp lãi suất huy động ở mức tương đương hoặc chênh lệch không đáng kể so với lãi suất tại nhóm 4 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước.

BIỂU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG NGÂN HÀNG CAO NHẤT NGÀY 29 THÁNG 9 (%/năm)
NGÂN HÀNG 1 THÁNG 3 THÁNG 6 THÁNG 9 THÁNG 12 THÁNG 18 THÁNG
PVCOMBANK 4,25 4,25 6,4 6,4 6,5 6,8
NCB 4,75 4,75 6,3 6,35 6,4 6,4
CBBANK 4,2 4,3 6,3 6,4 6,6 6,7
LPBANK 4,35 4,35 6,3 6,3 6,4 6,8
DONG A BANK 4,5 4,5 6,2 6,3 6,55 6,75
BAC A BANK 4,75 4,75 6,2 6,25 6,3 6,4
HDBANK 4,45 4,45 6,1 6,1 6,3 6,5
VIET A BANK 4,6 4,6 6,1 6,2 6,5 6,6
BAOVIETBANK 4,4 4,75 6,1 6,3 6,5 6,5
VIETBANK 4,75 4,75 6 6,1 6,3 6,8
OCEANBANK 4,6 4,6 5,8 5,9 6,1 6,5
SCB 4,75 4,75 5,75 5,85 6,05 6,05
BVBANK 4,4 4,7 5,75 5,9 6,05 6,15
SHB 4 4,3 5,7 5,8 6,1 6,4
SAIGONBANK 3,6 4 5,7 5,7 5,9 5,9
PG BANK 4 4 5,6 5,6 5,7 6,4
NAMA BANK 4,65 4,65 5,6 5,9 6,3 6,7
VIB 4,75 4,75 5,6 5,6 6,2
SACOMBANK 3,7 3,9 5,5 5,8 6,2 6,4
KIENLONGBANK 4,75 4,75 5,4 5,6 5,7 6,4
OCB 4,1 4,25 5,3 5,4 5,5 5,9
ACB 3,6 3,8 5,3 5,3 5,5
VPBANK 4,1 4,15 5,2 5,2 5,5 5,1
MB 3,6 3,8 5,2 5,3 5,6 6,3
EXIMBANK 4 4 5,2 5,5 5,6 5,8
SEABANK 4,5 4,5 5,2 5,35 5,5 5,5
TECHCOMBANK 3,65 3,85 5,15 5,2 5,45 5,45
GPBANK 4,25 4,25 5,15 5,25 5,35 5,45
MSB 3,8 3,8 5 5,4 5,5 5,5
TPBANK 3,8 4 5 5 5,55 6
ABBANK 3,7 3,9 4,9 4,9 4,7 4,4
AGRIBANK 3,4 3,85 4,7 4,7 5,5 5,5
VIETINBANK 3,4 3,85 4,7 4,7 5,5 5,5
BIDV 3,2 3,7 4,6 4,6 5,5 5,5
VIETCOMBANK 3 3,5 4,5 4,5 5,5 5,5

Đánh giá về động thái phát hành tín phiếu của NHNN nhằm điều chỉnh trạng thái thanh khoản ngắn hạn trên hệ thống, SSI Research cho rằng đây là hoạt động thường thấy từ các ngân hàng trung ương trên thế giới, không đồng nghĩa với việc NHNN sẽ đảo chiều chính sách tiền tệ.

Trên thực tế, việc thực hiện nghiệp vụ phát hành tín phiếu này còn có thể được coi là tích cực, thay vì NHNN lựa chọn phương án bán ngoại tệ từ dự trữ ngoại hối. Thông qua nghiệp vụ này, NHNN có thể có những đánh giá mức độ dồi dào của thanh khoản trên hệ thống, và điều chỉnh mức lãi suất trên thị trường 2 để cân đối giữa áp lực tỷ giá và hạn chế tối đa ảnh hưởng lên mặt bằng lãi suất thị trường 1.

Hiện tại, dựa trên số liệu tháng 7, tháng 8 và nửa đầu tháng 9 chưa thấy hồi phục rõ rệt, tăng trưởng GDP Quý III/2023 ước tính sẽ thấp hơn so với dự báo của Chính phủ trong khoảng 6,8%-7,4%.

Tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức 5,56% so với đầu năm tính đến giữa tháng 9 (mục tiêu: 14%-15% so với cùng kỳ) và từ các thông điệp gần đây của Chính phủ và NHNN, việc thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ không sớm diễn ra.