Dân tộc

Xtiêng

Nhóm ngôn ngữ

Môn Khơme

Lượt yêu thích

error 1796 Yêu thích

error
Thông tin chi tiết
Ảnh 360
Video
Hiện vật 3D

Dân số: 10.752 người

(số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019)

 

Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ. Có thể phân biệt hai nhóm Xtiêng là Bù Đéc và Bù Lơ.

 

Ngày nay, người Xtiêng ở nhiều nơi đã định canh định cư, từng gia đình nhỏ làm nhà ở riêng. Vùng cao ở nhà trệt, vùng thấp ở nhà sàn. Họ Điểu là họ phổ biến khắp vùng Xtiêng. Làng Xtiêng có truyền thống tự quản, đứng đầu là một ông già am hiểu tập tục, có uy tín lớn, tháo vát và thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được tính bằng tài sản như: trâu, bò, chiêng, cồng, ché, vòng, trang sức...

 

 

 

Người Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, dái tai xâu lỗ để đeo hoa tai bằng gỗ hay ngà voi và xăm mạt, xăm mình với những văn hoa giản đơn. Mọi người nam, nữ, già trẻ đều thích đeo các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Thông thường con trai tuổi từ 19-20, con gái từ 15-17 bắt đầu tìm bạn đời. Sau lễ cưới cô dâu về nhà chồng hoặc chú rể về ở đằng vợ.

 

Người Xtiêng quan niệm "vạn vật hữu linh" tin vào sức mạnh huyền bí của sấm, sét, trời, đất, trăng, mặt trời. Tính chất thiêng liêng và quyền uy của thần được quy ước bằng vật hiến sinh màu trắng: gà trắng, lợn trắng, trâu trắng. Đồng bào tính tuổi theo mùa rẫy.

 

Người Xtiêng ưa thích âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek (Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu…