Dân tộc

Chu Ru

Nhóm ngôn ngữ

Nam Đảo

Lượt yêu thích

error 1645 Yêu thích

error
Thông tin chi tiết
Ảnh 360
Video
Hiện vật 3D

Dân số: 23.242 người

(số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019)

 

Có lẽ xa xưa, tổ tiên người Chu Ru là một bộ phận trong khối cộng đồng Chăm; về sau, họ chuyển lên miền núi sống biệt lập với cộng đồng gốc nên thành người Chu Ru.

 

Ruộng của người Chu Ru có hai loại: ruộng sình và ruộng khô. Việc làm thuỷ lợi bằng mương, phai, đê, đập được chú trọng. Vườn có trên rẫy và vườn ở gần nhà. Chăn nuôi có gia súc và gia cầm. Săn bắn, hái lượm và đánh cá là hoạt động thường xuyên.

 

Người Chu-ru biết đan lát các đồ dùng gia đình bằng mây tre, tự rèn các công cụ sản xuất như liềm, cuốc, dao... Săn bắn, hái lượm và đánh cá đem lại nguồn thức ăn đáng kể hàng ngày.

 

Họ còn có các làng nghề nổi tiếng về nghề làm gốm.

 

 

Làng (plây) của người Chu-ru bao gồm nhiều dòng họ và có cả những người khác tộc cư trú. Đứng đầu làng là Pô plây (trưởng làng) do cộng đồng bầu ra. Người có uy tín về tinh thần sau trưởng làng là thầy cúng.

 

Đại gia đình người Chu-ru thường có 3-4 thế hệ, sống chung trong nhà dài. Hôn nhân một vợ một chồng, phụ nữ chủ động cưới chồng, người chồng cư trú bên nhà vợ.

 

Người Chu-ru thờ cúng tổ tiên. Trong nhà không có bàn thờ, việc thờ cúng diễn ra ở nghĩa địa. Các nghi lễ nông nghiệp ở người Chu-ru khá phong phú như cúng thần đập nước, thần mương nước, thần lúa, ăn mừng lúa mới ... Đáng chú ý là lễ cúng thần Bơ-mung (thần đập nước) vào tháng 2 âm lịch. Người Chu-ru có vốn dân ca, ca dao tục ngữ phong phú, trong đó nổi bật chủ đề ca tụng chế độ mẫu hệ và vai trò của phụ nữ trong xã hội cổ truyền. Trong kho tàng văn nghệ dân gian có hàng loạt trường ca, truyện thơ có giá trị nghệ thuật cao và là nguồn sử liệu có giá trị lịch sử.