Nhớ những năm 1930-1931, khi ấy, giữa gông xiềng nô lệ thực dân và vòng phong kiến cương tỏa, các kẻ thù các loại vây bủa, âm mưu bóp chết Đảng. Nhưng, chỉ mới đầy bảy tháng tuổi, Đảng cùng Nhân dân làm một cuộc duyệt binh lịch sử Xô-viết Nghệ - Tĩnh, báo hiệu rằng, Đất nước nhất định cập bến độc lập, Nhân dân nhất định tới ngày tới bờ tự do!

Cuộc duyệt binh cách mạng lịch sử ấy, dưới ngọn cờ của Đảng, là sự kết tinh sau bao nhiêu xương trắng máu đào của hàng trăm cuộc khởi nghĩa của bậc tiền nhân yêu nước thương nòi và đồng bào đổ xuống.

Đó là phong trào Cần Vương hơn 10 năm (1885 đến 1896); các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân; các cuộc đấu tranh của Nhân dân trung du miền núi như khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 - 1913), khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng chỉ huy, khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng đứng đầu, khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1889) do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy, cuộc nổi dậy ở Hưng Hóa (1885 - 1889) của Nguyễn Quang Bích và phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo...

Nó kết tinh và nâng lên tầm cao mới, với chất lượng mới khát vọng độc lập của các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào Nhân dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của Nhân dân, quy tụ, đoàn kết nhân dân chống xâm lược.  

Với phận sự là một “đứa con nòi” của Dân tộc, chỉ riêng trong cấp Trung ương của Đảng, có 14 người bị đế quốc Pháp bắn, chém, hoặc đập chết trong nhà tù… Trong 31 Ủy viên Trung ương Đảng ta, trước ngày khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đế quốc Pháp kịp “tặng” cho 222 năm tù đày.

Máu của những người con ưu tú của Dân tộc nhuộm đỏ thắm đất đai sông núi: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần… và hàng ngàn chiến sỹ cách mạng, hàng vạn đồng bào ta gan góc hy sinh vì lý tưởng độc lập tự do của Tổ quốc.

Vì, không có con đường nào khác, sự hy sinh vì Tổ quốc không cần đến, thậm chí bẻ gãy mọi điều luật, hơn nữa lại là những điều luật thực dân cổ xúy và bảo vệ cho sự tự do chém giết. Tất cả sự hy sinh của các bậc tiền nhân và đồng bào ta hiến dâng cho sự thiêng liêng và cao cả hơn hết thảy, là Tổ quốc phải độc lập, Dân tộc Việt Nam phải tự do, đã làm kẻ thù run sợ và khuất phục mọi điều luật thực dân.

Ở tuổi 15, Đảng cùng Nhân dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Một nền độc lập, tự do Việt Nam thật sự được sinh ra từ máu của Dân tộc và được bảo vệ bằng máu suốt 100 năm của Nhân dân và 15 năm của Đảng sinh ra và lớn lên trong lòng Dân tộc. “Đó là thắng lợi to lớn của Nhân dân Việt Nam, mà cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một nước thuộc địa”. (*)

Cuộc cách mạng này trực tiếp cổ vũ phong trào chống đế quốc và phong kiến của hai nước láng giềng trên bán đảo Đông Dương là Lào và Căm-pu-chia; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực Đông - Nam Á và những nước thuộc địa của thực dân Pháp ở các châu lục khác.

Đó là một bước đi ngắn của cách mạng nhưng là bước tiến dài của dân tộc Việt Nam từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc tự do”, có ý nghĩa quyết định sứ mệnh của Đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa thế kỷ XX.

Đảng ở tuổi 45, bằng sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, với một cuộc Tổng tiến công Mùa Xuân 1975 quét sạch đế quốc Mỹ xâm lăng và bè lũ ngụy quyền của chúng và thống nhất nước nhà.

Hơn 45 năm trước, máu đào xương trắng nhân dân nước Việt Nam ta lại đổ nơi phên dậu phía Tây Nam và cách đây 44 năm, mây đen vần vũ quần đảo nơi biên cương phía Bắc, dưới ngọn cờ của Đảng, hồn thiêng sông núi hun đúc chính khí dân tộc “chúng chí thành thành”, anh linh muôn bậc tiền hiền phù hộ, buộc Việt Nam ta nổi thêm một trận gió to quét sạch bùn nhơ phía Tây Nam bờ cõi, buộc làm một cuộc tự vệ biên giới phía Bắc, giữ gìn cương thổ lịch sử nghìn năm vững chãi, an định hai mặt biên thùy Tổ quốc, nối chí ông cha ta từng bố cáo cùng khắp trong thiên hạ: “Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”!

Một chân lý giản dị của thời đại tỏa sáng ở Việt Nam: Những kẻ chà đạp nền độc lập tự do của dân tộc khác thì chính sự độc lập tự do của họ tự bị tổn thương và thậm chí tự bị chính họ sỉ nhục và chà đạp.

Sự nghiệp đó của Dân tộc là cuộc cách mạng vĩ đại của Đất nước, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa, làm phá sản chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới, thúc đẩy phong trào độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 37 năm đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đã đưa Đất nước ta vượt qua mọi thách thức hiểm nghèo, chủ động phá thế bao vây cấm vận, tranh thủ mọi thời cơ, nhân lên những thuận lợi, đổi mới và phát triển toàn diện, đồng bộ, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Sự nghiệp đó thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của Đảng ta, sự đoàn kết, ý chí quyết tâm, lòng nhân hậu của Dân tộc Việt Nam và sự ủng hộ của bầu bạn quốc tế; là sự cổ vũ và niềm tin của lớp lớp cần lao khắp năm châu đang bị đọa đày gông xiềng, áp bức trói buộc; là lương tâm, phẩm giá và xu thế phát triển của các quốc gia dân tộc trong thời đại ngày nay. 

Tròn 92 năm qua, sự kiên định, thống nhất lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự phấn đấu và hy sinh không sờn lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần gìn giữ hoà bình thế giới, vì sự phát triển và tiến bộ xã hội của loài người ở thế kỷ XX và trong thế kỷ XXI.

Thực tiễn phát triển phong phú và hào hùng đó của Đất nước xác tín Đảng không ngừng vươn lên ngang tầm trách nhiệm to lớn và nặng nề mà lịch sử dân tộc giao phó, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của Nhân dân, vì sự trường tồn của Dân tộc.

Vị thế, sức mạnh và uy tín của Đất nước, dưới ngọn cờ của Đảng, là nền móng để Dân tộc tiếp tục phát triển đồng hành cùng nhân loại không thể gì cản nổi. Sự trưởng thành và phát triển trong lòng Nhân dân, dù gập ghềnh, thậm chí rất khó khăn của Đảng, trong vị thế là “đứa con nòi” của Dân tộc, càng phơi bày mọi thủ đoạn và thẳng thừng bác bỏ mọi chiêu bài của các loại kẻ thù mưu toan bôi nhọ, xuyên tạc, phủ nhận vị thế, vai trò và trách nhiệm lịch sử của Đảng đối với Nhân dân.

Không có cuộc sống bất tử. Chỉ có những sự nghiệp vẻ vang bất tử. Sự nghiệp 92 năm vẻ vang của Đảng đối với Tổ quốc và Dân tộc Việt Nam, không gì khác hơn, là một trong những sự nghiệp bất tử như vậy. Không có ai, không gì có thể làm vấy bẩn, chà đạp và bác bỏ được!

Kì tới: Tất cả phục vụ Tổ quốc, phụng sự Nhân dân

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

(*) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 409