Phòng thủ dân sự là một bộ phận của phòng thủ đất nước

Dự thảo Luật Phòng thủ dân sự đang được thảo luận. Đây là bộ luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng thủ dân sự (PTDS), bảo đảm cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Dự án Luật PTDS tập trung vào 6 chính sách đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 28-2-2022, bao gồm: Đánh giá mức độ rủi ro của thảm họa, sự cố trong hoạt động PTDS; phân công trong quản lý nhà nước và phân cấp trong tổ chức hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố; quy định các biện pháp bảo vệ người dân trước thảm họa, sự cố và hỗ trợ người dân bị thiệt hại; đổi mới tổ chức của Ban chỉ đạo PTDS quốc gia; ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn (big data) trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố; quy định về hoạt động PTDS trong tình trạng khẩn cấp.

Tàu cảnh sát biển Việt Nam

Khoản 1, Điều 13 Luật Quốc phòng nêu rõ: Phòng thủ dân sự là một bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng, chống chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân.

Theo đó, PTDS sẽ bao gồm tổng thể các hoạt động chuẩn bị từ thời bình đến khi nguy cơ chiến tranh, sự cố, thiên tai có thể xảy ra và khắc phục hậu quả nếu có. Hoạt động đó bảo đảm an toàn và hạn chế thấp nhất mức độ thiệt hại về người và tài sản của Nhà nước và nhân dân.

Đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh và đời sống nhân dân như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các sự cố môi trường khó lường... có thể gây ra những thiệt hại lớn cho đất nước, nhân dân.

Việc giảm nhẹ, khắc phục thảm họa do chiến tranh, công tác bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân, bảo vệ nền kinh tế quốc dân là những vấn đề lớn. Các trường hợp xảy ra thảm họa, sự cố hiện nay rất đa dạng, ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Do đó, để thực hiện tốt công tác PTDS, cần phải điều động lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào cuộc, đòi hỏi cơ chế vận hành phải được luật hóa.

Tạo cơ sở pháp lý hoạt động phòng thủ dân sự

Chiều 16/8, dưới sự chủ trì của Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật Phòng thủ dân sự.

Trình bày Tờ trình về dự thảo Luật, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Quốc phòng nhấn mạnh, phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng, chống chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân (khoản 1 Điều 13 Luật Quốc phòng năm 2018).

Phòng thủ dân sự bao gồm tổng thể các hoạt động được chuẩn bị từ thời bình, khi có chiến tranh xảy ra để chủ động phòng, chống thảm họa do chiến tranh; hoặc tổng thể các hoạt động được chuẩn bị để phòng ngừa, ứng phó, khắc phục thảm họa do con người hoặc thiên nhiên gây ra nhằm bảo đảm an toàn hoặc hạn chế thấp nhất mức độ thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân.

Theo Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, trong những năm qua, công tác phòng thủ dân sự từng bước được hoàn thiện cả về thể chế và tổ chức thực hiện, đáp ứng yêu cầu ứng phó, khắc phục khi có thảm họa, sự cố xảy ra. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động phòng thủ dân sự thời gian qua cũng tồn tại một số hạn chế, đặt ra yêu cầu phải xây dựng một đạo luật về phòng thủ dân sự, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động thực tiễn.

Việc xây dựng đạo luật về phòng thủ dân sự nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho việc chủ động phòng, chống, ứng phó hiệu quả với các thảm họa, sự cố, bảo đảm an ninh, an toàn cho đất nước khi có tình huống xảy ra. Đồng thời, bổ khuyết vào những khoảng trống của pháp luật hiện hành, khắc phục sự phân tán, riêng lẻ của các văn bản luật và các văn bản dưới luật, bao quát các quy định pháp lý về phòng thủ dân sự nâng thành một đạo luật để áp dụng thống nhất.

Thẩm tra Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật PTDS, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho rằng, thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật PTDS và cho rằng, PTDS là bộ phận quan trọng của phòng thủ quốc gia luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, coi trọng; PTDS liên quan tới mọi lĩnh vực của đất nước và là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, với sự tham gia của mọi người dân.  
Trước những diễn biến khó lường, phức tạp của tình hình thiên tai, dịch bệnh, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, những biến động của tình hình thế giới, khu vực thì việc ban hành luật này là cần thiết.

Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan soạn thảo phối hợp các Bộ, ngành, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để chuẩn bị lại dự án Luật một cách đầy đủ.

Về hồ sơ dự án Luật, Tờ trình cần làm rõ hơn các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc ban hành Luật, phạm vi điều chỉnh, nội dung kế thừa, phát triển những nội dung mới để bảo đảm cụ thể hóa quan điểm của Đảng về phòng, chống và khắc phục thảm họa, sự cố.

Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát, làm rõ các khái niệm “phòng thủ dân sự”, “tình trạng khẩn cấp”, “thảm họa”, “sự cố” và các khái niệm khác, làm rõ phạm vi điều chỉnh để thống nhất với nội dung của dự thảo Luật và quy định phòng thủ dân sự tại Điều 13 Luật Quốc phòng cũng như các quy định pháp luật khác về phòng thủ dân sự, tránh mâu thuẫn, chồng chéo.

Do nội dung dự thảo Luật liên quan đến nhiều văn bản luật về phòng thủ dân sự, tình trạng khẩn cấp, thảm họa, sự cố, trong đó có những văn bản đã có những quy định cụ thể và đang thực hiện, cơ quan soạn thảo cần tổng kết đánh giá việc thi hành các luật liên quan, rà soát một cách cụ thể nhất, đặc biệt là các khoảng trống mà các pháp luật chưa quy định hoặc quy định khác để thiết kế lại các điều luật. Đồng thời, rà soát hoạt động về phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp để tránh chồng chéo với những quy định về tình trạng khẩn cấp.

Hồng Khanh, Hoàng Giang, Xuân Quý