Núi Bân hiện ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, phường An Tây, thành phố Huế. Nơi đây không chỉ là một thắng cảnh thiên nhiên của Phú Xuân - Huế, mà còn là một di tích lịch sử đặc biệt. 

{keywords}
Tái hiện cảnh Hoàng đế Quang Trung Trung Nguyễn Huệ lên ngôi tại núi Bân.

Lập đàn tế cáo, đăng quang trên đỉnh núi Ba Tầng

Theo các nhà nghiên cứu, việc chọn núi Bân làm đàn Nam Giao trong điều kiện thời gian vô cùng gấp gáp cũng xuất phát từ việc tận dụng địa thế của vùng đất mà núi không cao, dễ vận động và có thể xây dựng đàn hoàn thành nhanh chóng, xung quanh là cánh đồng khá rộng đủ để tập kết hàng vạn quân. 

Chỉ trong một ngày đêm từ khi nhận được tin cấp báo ngày 24, đến ngày 25/11/Mậu Thân (1788) đã làm lễ xuất quân, nên không có công trình nào được xây dựng, mà chỉ tận dụng địa thế có sẵn của núi Bân bằng cách bạt núi, xẻ đường để lập đàn tế, tiến hành đại lễ nghi của vương triều.

Núi Bân có độ cao 41m, diện tích mặt bằng khoảng hơn 8 ha là một ngọn đồi trọc, cấu tạo bằng đá sa phiến. Núi Bân nằm ở phía Tây núi Ngự Bình, cách đỉnh núi khoảng 620m, cách kinh thành Phú Xuân thời Quang Trung khoảng 3,5km về phía Nam.

Bởi lẽ có 3 tầng nên được gọi là núi Bân còn có tên gọi là Ba Tầng do được kiến thiết thành ba tầng hình nón cụt chồng lên nhau. Các tầng liên thông với nhau bằng bốn con đường dốc thoai thoải để lên xuống, tỏa ra bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, lòng đường càng lên đỉnh càng nhỏ lại. Tầng trên cùng- tầng thứ 3 rất bằng phẳng chính là nơi đặt đàn tế cho Hoàng đế Quang Trung làm lễ đăng quang.  

Quanh dưới chân núi, xưa kia là những bãi đất trống rất rộng và tương đối bằng phẳng, có thể tập kết hàng vạn binh sĩ cùng nhiều voi ngựa và đại pháo. Từ trên đỉnh ngọn núi ấy nhìn ra khắp xung quanh, có thể nhận thấy người xưa ứng dụng thuật phong thủy và nghệ thuật cảnh quan một cách tài tình để khéo chọn một vị trí được bao bọc bởi núi đồi nằm kề tiếp nhau, tạo thành một không gian bao la hoành tráng.

Xuất quân ra Bắc đánh quân Thanh xâm lược

Ngay sau nghi lễ lên ngôi tại núi Bân, trong khí thế tưng bừng của một đội quân bách chiến bách thắng chỉ trong vòng năm tuần lễ quân Tây Sơn đã vượt qua gần 700 km đường rừng núi, suối, sông hiểm trở, quân ta trong thế một chọi ba đã quét sạch đạo quân xâm lược Mãn Thanh, thu lại toàn bộ giang sơn, giành lại nền độc lập và đặc cơ sở cho sự thống nhất đất nước.

Ngày 26/12/1788, đại quân ra tới Nghệ An, Quang Trung hoàng đế cho đóng ở Nghệ An mười ngày để tuyển quân. Sau đó, vua Quang Trung chia quân làm 5 đạo, ngày 15/1/1789 đại quân tiến tới núi Tam Điệp. Vua Quang Trung hạ lệnh ngày 30/12/Mậu Thân (25/01/1789) sẽ xuất quân tiến đánh các đồn tiền tiêu của giặc. Đến chiều ngày mồng 5/1/Kỷ Dậu (30/01/1789), Quang Trung Nguyễn Huệ giải phóng Thăng Long.

Theo sử sách ghi lại, đầu tháng 12/1788, 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta. Ngày 22/12/1788, tại núi Bân, Nguyễn Huệ đã cho xây đàn tế cáo trời đất và làm lễ lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung năm thứ nhất rồi hạ lệnh xuất quân thần tốc tiến ra Bắc. Đại quân Tây Sơn có hơn 10 vạn người, trong đó phần lớn được tuyển chọn ở Thuận Hóa được xem là quân chủ lực xung kích tác chiến.

Mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789), nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ đạo của người Anh hùng áo vải Nguyễn Huệ bắt đầu mở cuộc tiến công đồn Ngọc Hồi, rồi tràn vào thành Thăng Long, chỉ trong vòng 5 ngày tổng tấn công đầu xuân Tết Kỷ Dậu (25 đến 30/1/1789), các đạo quân Tây Sơn đã chiến đấu dũng cảm đánh bại quân xâm lược nhà Thanh.

Với lối đánh tiến công thần tốc, bất ngờ, táo bạo và mãnh liệt, vua Quang Trung đã đại phá quân Thanh, giữ vững nền độc lập và chủ quyền của quốc gia dân tộc.

Khu tưởng niệm dưới chân Núi Bân linh thiêng

Trải qua mấy trăm năm lịch sử, đặc biệt là sau khi Quang Trung mất, triều Tây Sơn sụp đổ, Gia Long - Nguyễn Ánh đã thực hiện chính sách trả thù tàn bạo. Mọi dấu tích của vương triều Tây Sơn gần như bị xóa trắng. Núi Bân gần như là di tích còn lại duy nhất của vương triều Tây Sơn Nguyễn Huệ ở cố đô Huế cho đến ngày nay.

Để lưu giữ phát huy hào khí bất khuất của người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ, năm 2010, tỉnh TT-Huế đã đầu tư trên 20 tỷ đồng để trùng tu tôn tạo khu di tích và xây dựng tượng đài vua Quang Trung trên núi Bân.

Tượng Hoàng đế Quang Trung cao 21 m, trong đó phần tượng cao 12 m, phần đài cao 9 m, được làm từ 18 mảng đá Thanh Hóa, mỗi mảng nặng 10-60 tấn. Phía sau tượng đài là bức phù điêu dài gần 60 m với các họa tiết miêu tả quá trình từ lúc khởi nghiệp của nghĩa quân Tây Sơn đến lúc Quang Trung phát lệnh tiến quân ra Bắc đánh tan 29 vạn quân Thanh. Trên chính giữa bức phù điêu có trích khắc chiếu lên ngôi của Hoàng đế Quang Trung “Nhân, Nghĩa, Trung tín là đầu mối lớn lao của đạo làm người. Nay cùng nhân dân đổi mới, sẽ cùng dìu dắt dân lên con đường lớn, đặt vào đài xuân…”. Bên trái phù điêu là trích khắc lời thề của Hoàng đế Quang Trung tuyên thệ giữa ba quân ở Nghệ An trước khi tiến ra giải phóng Thăng Long. “…Đánh cho để tóc dài/ Đánh cho để đen răng/ đánh cho nó chích luân bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…”.

Khu di tích lịch sử quan trọng này đã được Bộ Văn hóa Thông tin Quyết định công nhận số 28-QĐ/VH ngày 18/11/1988. Ghi dấu nơi đây mãi mãi là địa chỉ lịch sử linh thiêng, là di tích lịch sử đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.

Doãn Hợp