Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh là vấn đề quan trọng, có tính xuyên suốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được khẳng định trong nhiều kỳ đại hội Đảng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện, bên cạnh kết quả đạt được cũng bộc lộ nhiều hạn chế cả về nhận thức và hiệu quả kết hợp. Điều đó đòi hỏi các cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương cần tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức và năng lực tổ chức thực tiễn đối với chủ trương quan trọng này.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, kinh tế và quốc phòng là hai vấn đề cơ bản, xuyên suốt, luôn được gắn kết với nhau tạo nên tiềm lực, sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống, cả trong thời bình và khi có chiến tranh xảy ra. Kế thừa truyền thống quý báu đó và trên cơ sở thấm nhuần, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, như: “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; kết hợp tiền tuyến với hậu phương, vừa đánh giặc, vừa lao động sản xuất với tinh thần “vai súng, tay cày”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”; phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh; thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, v.v. Đó là bài học truyền thống quý báu, quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc.

Trong thời kỳ đổi mới đất nước, xuyên suốt các kỳ Đại hội (từ Đại hội VI đến Đại hội XIII), Đảng ta luôn kiên định chủ trương: Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh. Theo đó, các cấp, ngành, địa phương đã quán triệt, triển khai đồng bộ, toàn diện các chủ trương, giải pháp, từng bước phát triển tư duy, hoàn thiện lý luận về sự kết hợp này và trên thực tế đã tổ chức kết hợp tương đối chặt chẽ, hiệu quả yếu tố quốc phòng, an ninh trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trên từng vùng, miền, địa bàn và cả nước. Đến lượt nó, phát triển kinh tế - xã hội đã thực sự tạo tiền đề, động lực quan trọng để tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang và củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc.

Thời gian tới, thực hiện mục tiêu tăng cường tiềm lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, Đảng ta chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”1. Để chủ trương đó đi vào thực tiễn, các cấp, ngành, địa phương cần tập trung thực hiện toàn diện, đồng bộ các nội dung, giải pháp nâng cao nhận thức và năng lực tổ chức thực tiễn kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng khu vực, địa bàn và cả nước.

1. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh, Đảng ta chỉ rõ: “Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong các vùng, miền, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”2. Theo đó, các cấp, ngành, địa phương cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn nội dung kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, chú trọng kết hợp trong các dự án FDI, các dự án liên doanh với nước ngoài, tại các vùng - khu vực phòng thủ, nhất là các khu vực trọng điểm, nhạy cảm, đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh. Trong hoạch định và thực hiện các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội phải quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, đối ngoại và ngược lại. Các cấp, các ngành, địa phương phải trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ để xác định các kế hoạch, chương trình cả ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và triển khai thực hiện nghiêm túc trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại. Hoàn thiện cơ chế gắn chiến lược quốc phòng, an ninh với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng cơ chế phối hợp liên thông và đồng bộ giữa các bộ, ngành Trung ương với địa phương, giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các khu vực phòng thủ.

Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực và phát huy trách nhiệm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản liên quan đến kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức kinh tế và người dân tham gia thực hiện. Có cơ chế, chính sách đồng bộ, toàn diện, ưu tiên cơ chế huy động nguồn lực, phân bổ và sử dụng nguồn vốn các đề án, chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh các vùng biển, đảo, vành đai biên giới, địa bàn xung yếu, khu kinh tế - quốc phòng.

2. Xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, nhằm tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc gia. Đây là nội dung quan trọng, biểu hiện sinh động, hiệu quả của kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; bởi, công nghiệp quốc phòng vừa là bộ phận quan trọng của công nghiệp quốc gia, vừa là yếu tố cấu thành tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội”3. Theo đó, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI), toàn quân, nhất là ngành công nghiệp quốc phòng tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26/01/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về Đẩy mạnh phát triển Công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo, các kết luận, đề án, chương trình, kế hoạch của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phát triển công nghiệp quốc phòng, bảo đảm phù hợp với Chiến lược Quốc phòng, Chiến lựơc Quân sự, yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Tổ chức xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng: tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Quy hoạch sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt trên cả ba miền phù hợp với thế trận phòng thủ chiến lược.

Cùng với đó, ngành công nghiệp quốc phòng cần đột phá kiện toàn tổ chức lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, ưu tiên các ngành, lĩnh vực sản xuất trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh. Có cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài; chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ đầu ngành, nhà quản lý, chuyên gia giỏi, cán bộ khoa học công nghệ có khả năng khai thác, làm chủ công nghệ hiện đại và phấn đấu có “Tổng công trình sư”. Kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, cải tiến, sản xuất các loại vũ khí, trang bị hiện có với đầu tư nghiên cứu, sản xuất một số chủng loại vũ khí, trang bị tiên tiến, phục vụ mục tiêu hiện đại hóa Quân đội; tăng cường hợp tác quốc tế và xuất khẩu sản phẩm công nghiệp quốc phòng. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, đột phá nâng cao năng lực thiết kế, chế tạo vũ khí mới; duy trì tính ổn định, nâng cao chất lượng sản phẩm quốc phòng. Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật.

3. Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh. Lý luận chỉ đạo thực tiễn và từ thực tiễn tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận ở trình độ cao hơn, quay trở lại chỉ đạo thực tiễn đạt hiệu quả hơn. Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh chính là quán triệt, thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm rút ra những vấn đề lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Theo đó, các bộ, ngành Trung ương, địa phương chủ động xây dựng kế hoạch tổng kết thực tiễn, thí điểm các mô hình “kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế” để nhân rộng, phát huy sức mạnh cả hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ này.

Nội dung tổng kết phải toàn diện; trong đó, tập trung vào đánh giá nhận thức của các cấp, ngành, địa phương đối với nhiệm vụ quan trọng này đã đầy đủ, sâu sắc chưa, còn tư tưởng coi trọng kinh tế, xem nhẹ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh không. Công tác quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã gắn kết, đồng bộ chặt chẽ với các chiến lược quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ quốc chưa. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, quy chế phối hợp, kết hợp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ở mức độ nào; phương pháp, cách thức kết hợp ở các cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương có nhịp nhàng, ăn khớp, hiệu quả không. Mục tiêu, lợi ích của vùng, địa phương phù hợp với mục tiêu, lợi ích chiến lược tổng thể quốc gia chưa, v.v. Yêu cầu tổng kết phải thống nhất các thành phần, lực lượng liên quan; trung thực, khách quan, có quan điểm khoa học, biện chứng, có tầm nhìn tổng thể, chiến lược; đánh giá đúng thực trạng (thành tựu, hạn chế), chỉ rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan và rút ra bài học kinh nghiệm, khái quát thành lý luận sâu sắc, làm cơ sở chỉ đạo nâng cao hiệu quả kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh. Thực hiện phương châm: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh và ngược lại. Phương pháp tổng kết phải khoa học, chặt chẽ, tổ chức theo phân cấp, thường xuyên từng năm, cả giai đoạn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và gắn với tổng kết các nghị quyết, chiến lược, kế hoạch, chương trình,... chuyên đề về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, như: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, v.v.

Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh là chủ trương chiến lược, đúng đắn của Đảng, đòi hỏi các cấp, ngành, địa phương phải tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện với nội dung, phương pháp sáng tạo, phù hợp, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thượng tướng, PGS, TS. TRẦN VIỆT KHOA, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Giám đốc Học viện Quốc phòng
________________

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 157.

2 - Sđd, tr. 157.

3 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 159.