Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng và Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực văn hóa và con người. Đến thời kỳ đổi mới, các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Văn kiện Đại hội XIII đã đặt ra vấn đề xây dựng văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam là một trong những nội dung trọng tâm, cốt lõi và cũng là khâu đột phá, có giá trị động lực thúc đẩy phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc. Yêu cầu là phải nghiên cứu sâu, xây dựng được hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình và hệ giá trị quốc gia Việt Nam trong thời kỳ mới. 

Hệ giá trị quốc gia về văn hóa, gia đình và hệ giá trị con người Việt Nam đã được nêu trong nhiều Văn kiện của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 Khóa XI, Văn kiện Đại hội XIII và điều đó được khẳng định trong phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021.

Để hiểu rõ hơn vấn đề này, Báo điện tử VietNamNet tổ chức Tọa đàm: "Xây dựng và phát huy 4 hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ mới". Chúng tôi đã mời đến trường quay hai vị khách mời:

GS.TS Đinh Xuân Dũng, Nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa giáo dục của Quốc hội, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.

Mời quý vị và các bạn theo dõi video tại đây:

Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước

Nhà báo Diệu Bình: Thưa hai vị khách mời, một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu là “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”, xin ông phân tích rõ hơn về vấn đề này?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Bắt đầu từ lịch sử hàng ngàn năm trước, khi đất nước bị xâm lược đã có hình ảnh độc đáo là chú bé làng Gióng. Ba năm không nói, không cười nhưng nghe tiếng gọi của sứ giả “Ai có lòng yêu nước thì cầm vũ khí chống giặc Ân”, chú bé đã lớn lên thành Thánh Gióng, thành Phù Đổng. Đó là sự khơi dậy sức mạnh tinh thần của Việt Nam, khơi dậy khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Đó là hình ảnh đẹp và cũng chỉ có ở Việt Nam. 

Khơi dậy khát vọng yêu nước, khát vọng phát triển không chỉ nhắc đến ở hiện tại mà còn có ở quá khứ. Hội nghị Diên Hồng cũng là sự khơi dậy lòng yêu nước, sức mạnh của cả dân tộc để chiến thắng kẻ thù. Đặc biệt, trong thời kỳ hiện đại, Cách mạng Tháng 8 là thành tựu to lớn của nhân dân ta, khơi dậy sức mạnh dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và giành được độc lập cho đất nước. Đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam cũng như vậy. 

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu ra vấn đề: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” là giai đoạn mới trong lịch sử của dân tộc ta. Nếu hàng nghìn năm trước là khơi dậy ý chí độc lập tự do, giải phóng, bảo vệ và thống nhất Tổ quốc thì hiện nay là khơi dậy sức mạnh phát triển đất nước trong tình hình mới. 

Việt Nam đã vượt qua giai đoạn nghèo nàn và đang bước vào giai đoạn phát triển, bẫy phát triển trung bình đang đe dọa nếu không vượt qua được. Trên thế giới hiện nay, những nước vượt qua được bẫy phát triển trung bình về mặt kinh tế là không nhiều. Chúng ta chỉ vượt qua nó nếu khơi dậy được khát vọng phát triển đất nước, khơi dậy được sức mạnh của cả dân tộc về văn hóa, về nội lực. Trong vài năm tới, Việt Nam sẽ vượt qua thử thách mà nhiều dân tộc chưa vượt qua được là bẫy phát triển trung bình để trở thành một nước đang phát triển, nước phát triển trong tương lai. 

Tôi cho rằng, nội dung này trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là gắn liền với sự thật lịch sử, với một truyền thống lịch sử, đồng thời với sự tin tưởng vào nội lực của dân tộc. Vì vậy, không nên hiểu đây là lý thuyết, khẩu hiệu mà là sự khẳng định, là niềm tin của Đảng đối với đất nước. 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Không phải đến ngày hôm nay mới có khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc mà khát vọng đó trường tồn cùng với đất nước ta. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn lịch sử lại có cách thức khác nhau để khơi dậy khát vọng. Đặc biệt, giai đoạn hiện nay, khi văn hóa có vai trò hết sức quan trọng với sự phát triển đất nước trong việc tạo ra tình yêu, niềm tin, sức mạnh, đó cũng là lúc chúng ta mong muốn những giá trị văn hóa sẽ tạo ra sức mạnh chung cho cả dân tộc. Từ sức mạnh chung tạo ra khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Những khát vọng đó trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa hơn khi đất nước đang ở giai đoạn hết sức đặc biệt mà chưa có giai đoạn lịch sử nào Việt Nam có được vị thế, uy tín quốc tế như ngày hôm nay.

Hiện nay, bên cạnh những cơ hội cũng có rất nhiều khó khăn, thử thách. Thử thách không chỉ đến từ dịch bệnh Covid-19, khủng hoảng khu vực hay những khủng hoảng khác mà đến từ bối cảnh chung, nền kinh tế thị trường với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Những điều đó buộc phải nghĩ nhiều hơn đến cách thức, đến đổi mới để có cách tiếp cận, hướng giải quyết phù hợp với bối cảnh hiện nay. 

Xây dựng khát vọng phát triển đất nước theo cách tiếp cận ngày hôm nay sẽ có những điểm mới, cần gắn chặt hơn với việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, để sự gắn kết giữa khát vọng xây dựng đất nước và phát triển văn hóa sẽ tạo ra sức mạnh mới trong giai đoạn hiện nay và sắp tới. Đấy là những thông điệp quan trọng đã thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII.

Từ trái qua: Nhà báo Diệu Bình, GS.TS Đinh Xuân Dũng, PGS.TS Bùi Hoài Sơn. 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa ông Bùi Hoài Sơn, cũng trong Văn kiện Đại hội XIII và bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021 đã đề cập đến hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam thời đại mới. Xin ông chia sẻ rõ hơn về điều này và việc xác định những hệ giá trị này có ý nghĩa như thế nào đối với công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước?

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Trong xã hội chuyển đổi như hôm nay, rất cần có những định hướng nhất định vì xã hội có rất nhiều mối quan tâm khác nhau. Một xã hội thay đổi rất nhanh, giống như những dòng trạng thái trên facebook, cần có một sự tĩnh tâm trở lại. Với sự tĩnh tâm, mục tiêu… chúng ta sẽ phát triển được đất nước, gia đình, phát triển con người. 

Giá trị là những gì chúng ta ao ước, mong muốn đạt được và có sức mạnh điều chỉnh hành vi, chi phối con người. Mong muốn có cuộc sống hạnh phúc, ta sẽ điều chỉnh hành vi, làm sao để mình có tâm trạng hạnh phúc, cuộc sống hạnh phúc. Nếu mong muốn về tự do, ta sẽ định hướng theo những cách như vậy. Tức là trong cuộc sống, mỗi người đều có những ao ước, có những định hướng giá trị và định hướng giá trị không chỉ tốt cho một cá nhân mà tốt cho một gia đình, tốt cho sự phát triển văn hóa, sự phát triển của cả một đất nước. Chính vì thế, cần có mục tiêu nhất định, có những giá trị nhất định để điều phối, chi phối hành vi của quốc gia dân tộc, của gia đình, văn hóa, con người, từ đó tránh sự lãng tâm của mọi người. 

Nếu có quá nhiều mục tiêu hoặc không có mục tiêu sẽ rất dễ rơi vào tình trạng rối loạn trong xã hội. Con người sống không có mục tiêu, gia đình không có mục tiêu, xã hội không có mục tiêu sẽ dẫn đến làm hôm nay không biết nghĩ đến ngày mai, có những định hướng không tập trung được sức mạnh, tâm trí đến mục tiêu cụ thể. 

Đó là lý do tại sao phải đưa ra những mục tiêu muốn đạt được ở tầm quốc gia hay là ở tầm mức của lĩnh vực văn hóa, hay quy mô của gia đình để tạo ra sự quan tâm, thống nhất chung và tạo ra sức mạnh ở từng lĩnh vực. Từ đó, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cả đất nước giúp tiến nhanh hơn, chắc hơn, vững hơn để thực hiện được những kỳ vọng đã nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII.

Giá trị văn hóa là động lực phát triển bền vững 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa GS.TS Đinh Xuân Dũng, việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam được xác định theo những đặc trưng, định hướng như thế nào? 

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu 4 hệ giá trị là hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị con người Việt Nam, chuẩn mực con người Việt Nam và hệ giá trị gia đình.

Thứ nhất, bốn yếu tố này tạo thành một thang giá trị, theo lý thuyết về mặt giá trị, một thang giá trị có quan hệ chặt chẽ với nhau. 

Thứ hai, phải nhìn nhận đầu tiên là hệ giá trị quốc gia ở tầm khái quát cao nhất để nói về khát vọng vươn tới của dân tộc, đồng thời nói về những giá trị đang tồn tại cần tiếp tục định hình, phát triển gắn với hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay và hệ giá trị gia đình mà các giá trị này có 3 mối liên hệ.

Một là sự đảm bảo cho định hướng phát triển của cả dân tộc trong thời kỳ lịch sử mới. Trên cơ sở đó, một cá nhân và toàn dân tộc đi theo hướng phát triển đất nước. Hai là có tính chất tổng hợp những giá trị cốt lõi, tốt đẹp trong quá khứ của dân tộc với những giá trị đang hình thành trong hiện tại và những khát vọng trong tương lai. Ba là vấn đề này có sự gắn bó khăng khít với nhau. Trong hệ giá trị này, phải xây dựng theo những chuẩn mực cụ thể, góp phần định hướng cho mỗi con người, cho từng giai cấp, từng tầng lớp và toàn xã hội, qua đó hướng vào mục đích chung phát triển phồn vinh, hạnh phúc của đất nước. Đó là yêu cầu và đặc trưng, đồng thời cũng là định hướng để xây dựng 4 hệ giá trị này. 

GS.TS Đinh Xuân Dũng. 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa ông, mối quan hệ giữa các hệ giá trị được thể hiện ra sao? Việc xây dựng các hệ giá trị đã tạo chuyển biến như thế nào trong đời sống, xã hội? 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Chúng ta bàn về 4 hệ giá trị và chuẩn mực con người. Đầu tiên là hệ giá trị quốc gia, thứ hai là hệ giá trị văn hóa, thứ ba là hệ giá trị gia đình, thứ tư là hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam. 

Bốn hệ giá trị này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Ví dụ như nói về hệ giá trị quốc gia, trong hệ giá trị quốc gia có hệ giá trị văn hóa, có yếu tố liên quan đến kinh tế, liên quan đến xã hội và liên quan đến lĩnh vực khác. Trong xây dựng hệ giá trị quốc gia, có dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là những yếu tố vừa là chính trị, vừa là kinh tế, vừa là văn hóa được thống nhất trong hệ giá trị quốc gia. Như vậy, chúng ta lựa chọn những mục tiêu muốn nhấn mạnh để phát triển. 

Đối với hệ giá trị văn hóa, kế thừa những giá trị từ Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 là dân tộc, khoa học, đại chúng, chúng ta có 4 giá trị cho văn hóa là dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học. 

Đối với gia đình, những giá trị trong gia đình cũng giống như giá trị quốc gia nhưng ở quy mô nhỏ, cũng có giá trị về kinh tế, giá trị về chính trị trong cách hiểu về gia đình và có giá trị về văn hóa. Ví dụ như văn minh, ấm no, hạnh phúc.

Hay với phẩm chất con người Việt Nam cũng vậy, xác định những phẩm chất về yêu nước, tinh thần sáng tạo hay những yếu tố liên quan đến văn hóa và các lĩnh vực khác nhau. Con người là thành viên của gia đình, gia đình cấu tạo nên quốc gia, văn hóa chính là hồn cốt, là tinh thần của toàn bộ những câu chuyện đó. 

Những yếu tố từ yêu nước chuyển thành giá trị dân tộc, thành các giá trị khác, hay những yếu tố về hạnh phúc, tất cả các giá trị này của quốc gia, của cả gia đình, của cả văn hóa… sẽ được chuyển tải thành những nội hàm cụ thể, mục tiêu cụ thể để từ đó theo đuổi. 

Các hệ giá trị này cần phải có sự hỗ trợ và liên kết với nhau tạo ra sức mạnh. Ước mơ của con người là ước mơ của gia đình và cũng là ước mơ của dân tộc. Những giá trị của văn hóa cũng là động lực để phát triển bền vững đất nước. Tất cả những yếu tố này có sự hòa quyện, bổ sung, đóng góp cho nhau, từ đó giúp có sức mạnh chung. Đó là ý nghĩa trong xây dựng các nội dung cho các hệ giá trị.

Nhà báo Diệu Bình: Thưa GS.TS Đinh Xuân Dũng, mỗi hệ giá trị có những nội dung cụ thể như thế nào và chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ mới gồm những phẩm chất gì? Các vấn đề này có mối quan hệ như thế nào? Xin ông đưa ra quan điểm của mình.

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Văn kiện Đại hội Đảng XIII lần đầu tiên đưa khái niệm hệ giá trị quốc gia, có nghĩa là chưa có một quá trình nghiên cứu để có thể đúc kết ra những nội dung cơ bản của hệ giá trị quốc gia. Gần đây nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi mở một số nội dung của giá trị quốc gia đó. 

Hệ giá trị của con người Việt Nam cũng đang được bàn bạc. Ngay trong Văn kiện của Đảng cũng đều là những gợi mở rất sâu sắc nhưng luôn có những gợi ý để trao đổi và thảo luận. Tôi đã được dự Đại hội IX, Đại hội XI, đều có những cuộc tranh luận, trao đổi rất sôi nổi. Trong đó có ý kiến nói rõ, đây là những gợi mở để tiếp tục nghiên cứu, trao đổi đi đến kết luận.

Còn về chuẩn mực con người Việt Nam lại có đặc điểm khác, sự cụ thể hóa những giá trị con người Việt Nam ở trong từng đối tượng, từng tầng lớp, từng lứa tuổi, từng giới và trong từng cơ quan đơn vị, kể cả từ làng xóm như hương ước, quy ước ngày xưa là chuẩn mực. Đối với quân đội, công an cũng có những chuẩn mực cụ thể. 

Hiện nay, ta đã bàn bạc rất nhiều, chưa có những định hướng, chưa có những kết luận để xây dựng những chuẩn mực đó. Trong hội nghị vừa qua, các cơ quan Đảng và Nhà nước đã thảo luận, có dự định thành lập bộ phận nghiên cứu, tổng hợp để đưa ra nội hàm của 4 hệ giá trị và báo cáo các cơ quan có thẩm quyền để đi đến kết luận, một sự thống nhất trong nhận định, đồng thời rút ra định hướng trong hành động. 

Ở Singapore, họ đưa ra Quốc hội thông qua thành văn bản. Nhật Bản cũng vậy. Ở châu Âu, cứ 2 năm 1 lần, có 1 cơ quan nghiên cứu nêu ra những thay đổi trong hệ giá trị châu Âu. Có khi toàn bộ hệ giá trị không thay đổi mà chỉ thay đổi từng nội hàm, từng yếu tố trong hệ giá trị. 

Nếu hỏi nội dung cụ thể của 4 hệ giá trị này, tôi chưa có quyền nói mà chỉ có quyền đặt vấn đề. Tôi biết, hiện nay Ban Tuyên giáo Trung ương đang chuẩn bị cho việc nghiên cứu, trao đổi, lấy ý kiến và đi đến kết luận, báo cáo cơ quan có thẩm quyền thông qua nội hàm của 4 hệ giá trị này, định hướng cho toàn xã hội trong sự phát triển. 

Giao lưu, tiếp biến văn hóa là quy luật phát triển

Nhà báo Diệu Bình: Có ý kiến cho rằng, dưới sự tác động của đời sống kinh tế, xã hội, nhất là trong giai đoạn hội nhập quốc tế, bùng nổ thông tin hiện nay, sự giao thoa, du nhập văn hóa của các vùng miền đang có xu hướng lấn át, làm mờ nhạt văn hóa bản địa. Một số giá trị văn hóa không còn lưu giữ được, hoặc bị biến đổi, không đúng nguyên gốc của nó. Các vị khách mời đánh giá sao về ý kiến này?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Tôi xin phép đính chính một chút, sự du nhập của văn hóa nước ngoài vào ta chỉ dừng lại ở đó và không nên nói đến văn hóa vùng miền, vì văn hóa vùng miền ở đất nước ta làm đa dạng hóa, phong phú hóa nền văn hóa chung của dân tộc. 

Mối quan hệ qua lại giữa văn hóa dân tộc với văn hóa của nước ngoài không có vấn đề gì mới. Lịch sử văn hóa Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn có sự giao lưu, hợp tác, tiếp biến văn hóa với văn hóa nước ngoài, văn hóa Đông Nam Á, văn hóa phương Bắc, văn hóa Ấn Độ. 

Sự giao tiếp, giao lưu và tiếp biến gần như là một quy luật để vừa giữ được hồn cốt, vừa bổ sung, phát triển nền văn hóa Việt Nam. Đây là quy luật của văn hóa Việt Nam trong lịch sử phát triển, có lúc tiếp nhận nó như một sức ép nhưng chuyển sức ép đó thành chủ động, tìm ra những giá trị của văn hóa nước ngoài để làm phong phú thêm cho văn hóa Việt Nam. Vì thế ở đây đặt ra các vấn đề:

Một, nó là quy luật của sự tiếp biến văn hóa, không có một nền văn hóa nào cô lập với nền văn hóa khác, dù là sự hội nhập hiện nay hoặc là giai đoạn trước. 

Hai, phải lấy cái gốc của văn hóa Việt Nam để làm điểm tựa cho sự phát triển và tiếp nhận văn hóa nước ngoài, thiếu cái gốc đó không có văn hóa của dân tộc. Đây là một kinh nghiệm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

Ba, điều hết sức quan trọng là phải Việt hóa văn hóa của nước ngoài, theo sự thông minh, trí tuệ, tình cảm, phong tục tập quán của người Việt Nam. Việt hóa thành tựu văn hóa nước ngoài để từ đó chọn lọc cái gì phù hợp với văn hóa Việt Nam. 

Bốn, trong tình hình hiện nay, hết sức cần thiết tạo sức đề kháng của người tiếp nhận văn hóa nước ngoài, biết chọn lọc cái gì là tinh túy, tinh hoa, cái gì là phù hợp bổ sung cho văn hóa Việt Nam. Sức đề kháng này nếu mất đi sẽ làm lu mờ nền văn hóa dân tộc. 

Bốn yếu tố này tạo ra sự phát triển mới cho văn hóa Việt Nam, vừa là văn hóa Việt Nam, vừa tiếp nhận tinh hoa của văn hóa thế giới, hội nhập quốc tế. 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Quá trình tiếp biến văn hóa là quá trình thường xuyên trong lịch sử, không chỉ ở Việt Nam mà ở các dân tộc trên thế giới. Quá trình tiếp biến văn hóa là quá trình biến đổi văn hóa.

Trong lịch sử, chúng ta đã có rất nhiều thành công trong quá trình tiếp biến văn hóa, dựa trên văn hóa của mình tiếp nhận tinh hóa văn hóa của các nước như: Ấn Độ, Trung Quốc và biến nó thành giá trị Việt Nam. Khi thực hành giá trị văn hóa đó, ta cũng không nghĩ là nguồn gốc đến từ đâu mà chỉ biết là văn hóa Việt Nam. Chỉ làm được như vậy khi có sức mạnh từ văn hóa, có bản lĩnh văn hóa, một sự tự tin khi hội nhập văn hóa tiếp theo. 

Tuy nhiên, ở giai đoạn hiện nay, tôi xin bổ sung thêm, ngày nay đã khác xưa vì thế giới giờ trở thành ngôi làng toàn cầu và tốc độ hội nhập quốc tế quá nhanh, nguy cơ bị xâm lăng văn hóa là có thật. Chứng kiến giới trẻ đam mê văn hóa nước ngoài như lễ hội Halloween, ban nhạc Hàn Quốc… và xa lánh văn hóa dân tộc là một lo ngại. Điều này xuất phát từ nhiều lý do, đặc biệt là tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập quá nhanh chóng và sâu rộng khiến cho nhiều giá trị văn hóa nước ngoài, sinh hoạt văn hóa nước ngoài lấp lánh, hấp dẫn có thể không phù hợp với chúng ta nhưng lại thu hút giới trẻ. 

Giới trẻ đi theo những điều đó một cách vô thức, mù quáng khi bản lĩnh văn hóa, sự tự tin văn hóa chưa đầy đủ. Giới trẻ thấy hay, hấp dẫn thì theo mà không cần biết điều đó có phù hợp với mình hay không? Có giúp mình trưởng thành về mặt nhân cách, đạo đức hay không? Đó là những vấn đề lo ngại và cần phải củng cố về giá trị văn hóa của nước ta bằng cách nâng cao nhận thức, hiểu biết về văn hóa, giá trị văn hóa của đất nước. Từ đó tạo ra sự tập trung trong theo đuổi giá trị phù hợp văn hóa của đất nước, phù hợp với từng tầng lớp.

Ở câu chuyện vùng miền, tôi đồng ý với GS.TS Đinh Xuân Dũng, văn hóa có cách tiếp cận là không có văn hóa cao và không có văn hóa thấp, nền văn hóa có đặc sắc, có giá trị riêng. Không so sánh văn hóa người Kinh với văn hóa người Mường, không so sánh văn hóa người Mường với văn hóa người H’Mông… Mặc dù không nên so sánh như vậy nhưng hiện nay, văn hóa của các tộc người đang thay đổi, biến đổi theo hướng không mong muốn, tức là đang bị Kinh hóa, đang bị theo đuổi những giá trị văn hóa nước ngoài. 

Với mong muốn sự đa dạng văn hóa tạo ra một đất nước Việt Nam hấp dẫn, vừa phong phú, vừa đa dạng, vì vậy, mỗi dân tộc phải gìn giữ văn hóa của mình, gìn giữ ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, dân ca… Mỗi dân tộc như vậy mới tạo ra bức tranh đa mầu sắc, như rừng hoa đẹp có các loại hoa khác nhau ở dân tộc ta. Nhưng quá trình cộng sinh, di cư, quá trình tác động của các phương tiện truyền thông mới như mạng xã hội đã ảnh hưởng đến cộng đồng các dân tộc rất nhiều, khiến họ nghĩ rằng văn hóa của các dân tộc khác hấp dẫn hơn văn hóa dân tộc mình, việc theo đuổi những giá trị của đa số, của nước ngoài mới làm cho mình văn mình. 

Thực tế, việc đó không phải là điều đúng đắn, buộc phải có giải pháp. Đầu tiên là nhận thức để họ nhận thấy được giá trị dân tộc mình mới là quan trọng. Khi ý thức về tộc người, ý thức về giá trị văn hóa của mình tốt hơn, giữ gìn được thì sẽ tự tin nhiều hơn khi hội nhập quốc tế, xã hội. Làm như thế không chỉ tốt cho văn hóa mà còn tốt cho kinh tế và các lĩnh vực khác. Khi nhìn nhận một cách tổng quan mới giúp phát triển văn hóa, phát triển đất nước từ văn hóa và bằng văn hóa. 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn.

Văn hóa điều tiết sự phát triển kinh tế - xã hội

Nhà báo Diệu Bình: Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã chứng minh, nền văn hóa Việt Nam được hun đúc suốt chiều dài dựng nước và giữ nước. Đồng thời khơi dậy và phát huy, nhân nguồn sức mạnh đó trong hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xin hai vị khách mời phân tích về vai trò của giá trị văn hóa dân tộc trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Đây là một sự thật rất hiển nhiên, nếu nhìn vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc từ trước đến nay, dù luôn phải đương đầu với những thế lực xâm lược mạnh hơn về kinh tế, quân sự nhưng ta luôn giành chiến thắng và bảo vệ được nền độc lập của đất nước.

Tìm nguyên nhân, vì sao một dân tộc nghèo nàn, nhỏ bé mà chiến thắng được quân xâm lược có sức mạnh quân sự, kinh tế lớn từ trong lịch sử và đặc biệt trong thời kỳ hiện đại, ngay những thế lực từng xâm lược chúng ta đã phát hiện ra một chân lý hết sức đơn giản, đó là sự thắng lợi của văn hóa Việt Nam. Khi cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đọc bài thơ tương truyền của Lý Thường Kiệt thì ông chỉ rằng, đây chính là sức mạnh Việt Nam, sức mạnh của văn hóa Việt Nam chiến thắng trong cuộc chiến tranh với đế quốc Mỹ. 

Văn hóa Việt Nam đã trực tiếp góp phần tạo nên sức mạnh con người Việt Nam trong 90 năm kháng chiến, 90 năm cách mạng, đó là điều hiển nhiên không ai chối cãi. Điều đặc biệt hơn, chính nền văn hóa đó, không chỉ chiến thắng kẻ thù, kẻ xâm lược mà đã tạo nên cái đặc sắc của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, như “thẻ căn cước” để người Việt Nam khẳng định mình. Đó là điều hết sức quan trọng tạo nên sức mạnh nội sinh trong con người Việt Nam. Trong bất cứ tình huống nào và đứng trước thử thách của cuộc chiến tranh xâm lược, của nghèo nàn lạc hậu, đứng trước thử thách của diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, sức mạnh nội sinh về mặt văn hóa của người Việt Nam cũng đủ để chống đối lại và đấu tranh thắng lợi. 

Với tất cả sự khiêm tốn và khách quan, có thể khẳng định văn hóa Việt Nam góp phần để tạo nên sức mạnh con người Việt Nam trong cả hai sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Văn hóa được kết tinh trong quá trình lịch sử để tạo ra những giá trị và những giá trị này được kết tinh bởi những hình tượng cụ thể, các nhân vật lịch sử cụ thể và sự kiện cụ thể. Chính vì thế, nhìn vào sự kiện hoặc nhân vật trong lịch sử dân tộc sẽ thấy rất nhiều văn hóa được kết tinh ở đó. 

Khi nghĩ về thời kỳ Hùng Vương, “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm Đền Hùng ở Phú Thọ. Nhân vật Hùng Vương, câu chuyện về Hùng Vương đã kể về một dân tộc có tổ, có tông, một dân tộc lớn lên, trưởng thành, phát triển từ tình yêu nước, sự đoàn kết. Hay Đức Thánh Trần, những người có công với nước sẽ được nhân dân tôn thờ, cách chúng ta tôn thờ những giá trị, những tinh thần và từ đó chuyển biến thành những sức mạnh dân tộc. 

Tất cả những hình tượng như thế từ những con người cụ thể, từ những hình tượng cụ thể đã được truyền thuyết hóa thành những vị thần, vị thánh hay những sự kiện luôn được tưởng nhớ đã tạo ra những giá trị được tôn thờ đến ngày hôm nay và dẫn dắt đất nước phát triển. Để có được cơ đồ như ngày hôm nay thì có rất nhiều lý do khác nhau nhưng một trong những lý do quan trọng nhất chính là đến từ văn hóa. 

Như GS.TS Đinh Xuân Dũng đã nói, thế lực xâm lược luôn có sức về quân sự, kinh tế lớn hơn chúng ta rất nhiều. Chúng ta chỉ còn sức mạnh có thể đánh bại và vượt qua được những khó khăn chính là từ văn hóa. 

Văn hóa Việt Nam được xây dựng từ văn hóa gia đình, văn hóa làng xã. Từ những lũy tre làng, từ những giá trị văn hóa trong gia đình như vậy đã trường tồn qua hàng ngàn năm lịch sử, kể cả hàng ngàn năm Bắc thuộc mà vẫn có thể giành lại độc lập cho dân tộc. Chúng ta chỉ làm được điều đó khi thực sự dựa vào văn hóa làng xóm, văn hóa gia đình, từ đó tạo ra sức mạnh chung cho dân tộc.

Khi chúng ta vẫn còn nghĩ rằng có một tổ tiên chung là Hùng Vương, chúng ta vẫn có một lòng yêu nước, cần có tinh thần đoàn kết. Chính vì lý do đó, khi về Hà Nội năm 1954, Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã nhắc lại câu: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” để khơi dậy tinh thần độc lập, tinh thần yêu nước và tinh thần đoàn kết. Từ đó vượt qua mọi khó khăn, mọi kẻ thù.

Văn hóa được kết tinh trong quá trình lịch sử.

Nhà báo Diệu Bình: Vấn đề xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới có vai trò như thế nào trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam, thưa hai vị khách mời?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Hiện nay, các hệ giá trị đang bắt đầu hình thành và có cuộc đấu tranh để khẳng định cho những giá trị lớn, từ hệ giá trị quốc gia cho đến hệ giá trị gia đình.

Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu phát triển giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, nếu xây dựng được chuẩn xác, phù hợp với quy luật của đất nước, phù hợp với lòng dân, các hệ giá trị này sẽ giúp cho một định hướng về mặt tư tưởng, về tình cảm, về cảm xúc. Từ đó, định hướng hành động tập trung vào những công việc lớn cho đất nước và mỗi người đều xác định vị trí của mình trong toàn cuộc của xã hội. 

Sức hút của giá trị là như vậy, không chỉ ở tầm vĩ mô quốc gia mà ở trong từng con người, trong từng gia đình. Nếu xây dựng được 4 hệ giá trị này một cách chuẩn mực, phù hợp với nhu cầu phát triển, quy luật phát triển của đất nước và phù hợp với lòng dân, nó sẽ trở thành một sức mạnh nội sinh của mỗi con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế để lại khá nhiều vấn đề, có 2 mặt tích cực và tiêu cực. Những mặt tích cực có thể thấy ngay, ví dụ chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như hôm nay. Cách đây 10 năm hay 20 năm cũng không thể tưởng tượng có điều kiện vật chất như thế này. Công cuộc đổi mới của Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã đem lại rất nhiều tác dụng tích cực. 

Tất nhiên cũng có khá nhiều điều tiêu cực, ví dụ như con người bây giờ nghĩ đến vật chất nhiều hơn. Nó cũng nhiều mặt tích cực, khi theo đuổi những giá trị vật chất con người sẽ năng động hơn, tích cực hơn, tạo ra của cải cho cá nhân, gia đình và cả xã hội. Nhưng nếu quá coi trọng những giá trị vật chất thì đi ngược lại sự đề cao những giá trị tinh thần. Khi đề cao những giá trị lợi ích của cá nhân, sẽ đánh rơi những cái muốn đề cao, như là tinh thần cộng đồng. 

Quá trình hội nhập quốc tế có rất nhiều sự tiếp xúc văn hóa, đem lại những giá trị, những sinh hoạt văn hóa. Có những cái giúp phong phú hơn đời sống tinh thần, tạo điều kiện có một hoạt động phù hợp hơn với bối cảnh nhưng cũng có những cái chưa phù hợp. Vì vậy, cần một quá trình để điều tiết. 

Những phương tiện truyền thông mới khiến ta có một thế giới mới là thế giới ảo. Đầu tiên tưởng thế giới đó vô hại với thế giới thật, đó là thế giới tách biệt với thế giới khác nhưng càng ngày, thế giới ảo lại càng có nhiều tác động đến thế giới thực. Chúng ta dành nhiều thời gian cho thế giới ảo, cho mạng xã hội nhiều hơn cho con cái của mình, công việc của mình và điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến thế giới thật. 

Toàn bộ những thay đổi như vậy có nhiều cái là “vô tiền khoáng hậu” khi ta chưa có bất kỳ kinh nghiệm nào để ứng phó. Ta cần phải có một hệ điều tiết và hệ điều tiết đó chắc chắn phải đến từ văn hóa. 

Từ trước đến nay, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi có sự điều tiết về văn hóa, cụ thể là các hệ giá trị, ta sẽ biết việc gì nên làm và việc gì không nên làm, được làm gì và không được làm gì. Từ sự điều tiết về mặt đạo đức như vậy, con người sẽ sống tốt hơn trong tất cả các lĩnh vực, cuộc sống gia đình, ở ngoài xã hội, ở nhà trường, các đoàn thể hay ở không gian mạng. Đó là cái chúng ta cần trong bối cảnh hiện nay. 

Quá trình hội nhập quốc tế có rất nhiều sự tiếp xúc văn hóa.

Cuộc đấu tranh trong thời kỳ quá độ

Nhà báo Diệu Bình: Thưa GS.TS Đinh Xuân Dũng, sự thay đổi nhanh chóng của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đang có những tác động lớn tới hệ giá trị con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Hệ lụy dẫn đến việc thế hệ trẻ có xu hướng “thờ ơ” với văn hóa dân tộc, đối diện với nguy cơ bị xâm lấn, đồng hóa bởi nhiều yếu tố văn hóa khác. Xin ông chia sẻ quan điểm về vấn đề này? 

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Tôi nhìn vấn đề này ở chiều bao quát hơn. Thứ nhất, đất nước ta đang đứng ở đâu. Tôi đọc bài của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, có một ý rất sâu sắc tôi rất tâm đắc, đó là đất nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ. 

Đặc điểm của thời kỳ quá độ là thời kỳ kéo dài, phức tạp, diễn biến rất năng động và nhanh. Nó là sự biến đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực và xen kẽ giữa những yếu tố xã hội chủ nghĩa và những yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, những yếu tố văn hóa, những yếu tố dưới văn hóa, vô văn hóa, phản văn hóa. 

Từ đó, sẽ có một bộ phận ảo tưởng rằng đã có chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, dẫn tới bi quan hoặc lạc quan, nhưng bộ phận bi quan cho rằng chưa có chủ nghĩa xã hội mà đó chỉ là ảo tưởng. Cả hai đều không đúng, chúng ta đang nằm trong thời kỳ quá độ này. 

Trong bài của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rất kỹ về vấn đề này, phải nhìn văn hóa, nhìn thế hệ trẻ ở trong đó và dẫn tới những biểu hiện sau đây:

Một là, những người trung thành với lý tưởng của Đảng, khát vọng của dân tộc thì kiên định với lý tưởng đó và sáng tạo để vượt qua thử thách mà thực hiện được khát vọng của dân tộc. 

Hai là, dấu hiệu của sự lệch chuẩn, loạn chuẩn, do sự phân hóa từ trong một trục, không chỉ thanh niên mà còn ở các thế hệ khác. 

Ba là, có những người lúng túng trong sự lựa chọn. Tình hình hiện nay còn có cả những người đi ngược lại lý tưởng của mình, hay nói đúng là phản bội lại cái mình từng đi theo, từng đặt niềm tin, từ đó dẫn đến những tư tưởng sai lầm. 

Trong tình thế như vậy, văn hóa phải đứng ở trong cuộc đấu tranh để khẳng định vị trí của mình, đồng thời tham gia vào cuộc đấu tranh chung. Từ những vấn đề như vậy, ta có ba suy nghĩ.

Một: Không nên đổ lỗi và cần bảo vệ thanh niên trước những tác động phức tạp của thời kỳ quá độ hiện nay. Bảo vệ, khẳng định, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển, họ là lực lượng quan trọng quyết định đến sự phát triển sắp tới của đất nước.

Hai: Bồi dưỡng kiến thức từ trong gia đình cho tới các nhà trường, đến khi ra cuộc đời. Phải bồi dưỡng kiến thức cho họ về mặt bản lĩnh, tư tưởng, tâm hồn, văn hóa… trên tất cả các lĩnh vực để có thể trụ vững trước những tác động trong thời kỳ quá độ này.  

Ba: Phải tỉnh táo, dè chừng những biểu hiện thờ ơ và ưa chuộng một cách không có chọn lọc những sản phẩm văn hóa nước ngoài và phai nhạt, đôi khi coi thường văn hóa dân tộc. Công việc này phải làm đồng thời, kiên trì, lâu dài và có bài bản, có sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị. 

Trước biến động nhanh chóng, phức tạp hiện nay, có bộ phận thanh niên như vậy nhưng nếu nhìn rộng ra phải thấy được cả một cuộc đấu tranh của thời kỳ quá độ. Khi vượt qua thời kỳ quá độ, sự phát triển xã hội tạo nên sự cân bằng, lúc đó sẽ có được thế hệ vững vàng, gìn giữ, kế tục sự nghiệp của cha ông mình.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Thế hệ trẻ hôm nay là một thế hệ rất năng động và chúng ta có thể tự hào về họ. Tuy nhiên, vẫn có những biểu hiện lệch lạc, không phù hợp, đúng chuẩn mực và cần lên án, giúp cho giới trẻ phát triển. 

Bản chất tuổi trẻ là khao khát tìm kiếm, thể hiện cái mới, cái lạ rất là sáng tạo. Trong các lĩnh vực khác của xã hội, có rất nhiều gương mặt trẻ tài năng, nhiều tấm gương các bạn trẻ từ thiện nguyện, văn hóa nghệ thuật, khoa học công nghệ… nhưng cũng có nhiều hiện tượng chưa phù hợp. 

Vì thế hệ trẻ là tương lai của đất nước nên cái gì chưa chuẩn cần chỉnh sửa để có một tương lai xứng đáng với kỳ vọng. Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của GS.TS Đinh Xuân Dũng và xin bổ sung thêm, không phải giới trẻ không yêu văn hóa dân tộc, không đam mê với những giá trị văn hóa dân tộc, không tập trung với những giá trị chúng ta đang xây dựng. Đó là do ta chưa làm cho họ hiểu, chưa định hướng được cho họ.

Thay vì đổ lỗi cho giới trẻ, cần tạo môi trường để giới trẻ phát huy hết tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo. Phải xây dựng bản lĩnh và sự tự tin cho giới trẻ để họ hội nhập quốc tế tốt hơn, từ đó sáng tạo, làm ra những giá trị Việt Nam và tỏa sáng trên thế giới. Để làm được điều đó, đầu tiên phải tin vào giới trẻ, phát huy tài năng của họ. 

Ví dụ trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, có rất nhiều nghệ sĩ trẻ đã sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian, di sản… để tạo ra những sản phẩm nghệ thuật mới, vừa phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của giới trẻ, vừa phù hợp xu thế của ngày hôm nay nhưng vẫn chất chứa, kết tinh rất nhiều giá trị văn hóa Việt Nam trong đó. Biến những sự việc, hành động cụ thể này thành một xu hướng, chắc chắn chúng ta sẽ vươn ra thị trường thế giới. 

Ở trong văn hóa nghệ thuật, người ta nói rằng “More local, more International” (càng địa phương thì càng quốc tế), khán giả quốc tế mong muốn tìm hiểu, chiêm ngưỡng những giá trị của Việt Nam, cái khác với văn hóa của họ. Nếu ta làm giống hệt sẽ không bằng họ, vì họ có một truyền thống, một lịch sử, một bề dày nền tảng. Về văn hóa nghệ thuật, ta mong muốn tìm kiếm sự sáng tạo, khác biệt, chứ không phải là sự sao chép y nguyên. Nếu làm được như thế sẽ phát triển được nhiều hơn cho giới trẻ. 

Trong nhiều lĩnh vực khác cũng thế, ta có những tài năng và cần tạo ra môi trường để tài năng trẻ được tỏa sáng, không chỉ ở trong nước mà còn quốc tế. Khi tài năng đã tỏa sáng bằng những giá trị văn hóa, dựa trên di sản… không chỉ giúp cho chính công việc của bản thân họ mà còn giúp tỏa sáng những giá trị văn hóa Việt Nam, giúp cho đất nước vững chắc hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa. Những quốc gia nào không định vị được giá trị văn hóa sẽ có nguy cơ mất nước. 

Đặc điểm của thời kỳ quá độ là thời kỳ kéo dài, phức tạp, diễn biến rất năng động và nhanh.

Nhà báo Diệu Bình: Vậy, làm thế nào để thu hút sự quan tâm, chú ý hơn nữa của giới trẻ đến văn hóa dân tộc, để những giá trị cốt lõi của hệ giá trị văn hóa không chỉ là sợi dây gắn kết lịch sử mà còn là tấm khiên bảo vệ nền tư tưởng của Đảng, bảo vệ giới trẻ trước sự du nhập của các yếu tố ngoại lai, thưa ông?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Đây là câu hỏi rất hay mà tôi có nhiều băn khoăn. Một sự cân nhắc giữa kiên định và sáng tạo trong hoạt động văn hóa. Kiên định là những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc với những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nhưng đồng thời phải hết sức sáng tạo để có thể tạo ra sự đa dạng của văn hóa. Lấy cốt lõi là nền văn hóa dân tộc để tạo nên sự đa dạng và chính sự đa dạng đó giúp cho sức hấp dẫn, sự thu hút của văn hóa đối với lớp trẻ. 

Nếu chỉ có kiên định, chỉ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta sẽ không tạo được sức hấp dẫn, thu hút đối với giới trẻ. Trong định hướng phát triển văn hóa phải là sự kết hợp giữa năng lực, bản lĩnh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ giá trị cốt lõi của nền văn hóa mới tạo ra sự phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của thế hệ trẻ. 

Tôi rất mừng là hiện nay có nhiều sự sáng tạo của giới trẻ, gắn giữa hiểu biết văn hóa dân tộc với những sáng tạo mới, đáp ứng nhu cầu của chính họ. Trong kinh tế, người ta thường bán cái người khác cần, chứ không phải bán cái mình có. Có nghĩa, phải chú ý đến nhu cầu, đòi hỏi và mong muốn của thế hệ trẻ. Tất cả những cái đó sẽ tạo nên giá trị văn hóa mới, vừa là của dân tộc, vừa là thế hệ trẻ cần. Hiện nay trong sáng tạo văn học nghệ thuật chưa có nhiều nhưng cần phải khuyến khích, bảo vệ, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, giải quyết cho được giữa cái kiên định và nhu cầu của giới trẻ. Từ đó tạo nên một sự thống nhất, hấp dẫn, lôi cuốn thế hệ trẻ về phía chúng ta. 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tôi tham gia rất nhiều sự kiện trong đó các bạn trẻ nói lên tâm tư nguyện vọng. Một em phát biểu rằng: “Không phải chúng em không yêu văn hóa truyền thống, căn bản nhất là chúng em không hiểu văn hóa truyền thống. Ví dụ khi vào Tháp Chăm, không ai hướng dẫn em là con bò thần Nandin có ý nghĩa như thế nào? Cột Linga ra làm sao? Việc xây dựng Tháp Chăm độc đáo ở chỗ nào? Vì thế em cũng không biết được tính hấp dẫn của nó. Nhưng sau này khi biết được sự hấp dẫn đó, em lại rất ham mê, mong muốn sáng tạo giá trị văn hóa để điều đó trở nên hấp dẫn hơn”. 

Qua đó cho thấy, hình thành nên hệ giá trị, hình thành nên tình yêu của giới trẻ với di sản văn hóa dân tộc thì tất cả những cái đó sẽ hấp dẫn với giới trẻ. Tại sao những gì xa lạ ở nước ngoài vẫn khiến giới trẻ thực hành, thậm chí có phần thái quá. Trong khi những thứ rất gần gũi, được thể hiện trong những bài hát, câu thơ, lời hát ru của mẹ lại không tạo thành những sản phẩm hấp dẫn. Từ đó tạo ra tình yêu của giới trẻ với giá trị văn hóa dân tộc.

Việc cần làm hiện nay là biến văn hóa trở nên hấp dẫn hơn, thông qua các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, bằng cách kể về những giá trị văn hóa, thể hiện những giá trị văn hóa, đưa ra những thông điệp về văn hóa, các bài hát, câu chuyện, bộ phim, thời trang, ẩm thực… Nó không chỉ tạo ra những giá trị, sản phẩm văn hóa đó mà còn tạo ra những tình yêu của giới trẻ. Giá trị văn hóa dân tộc nuôi dưỡng từ những tình yêu, nhận thức đúng đắn và đầy đủ sẽ tạo ra những người bảo vệ văn hóa trong tương lai. Đó là biện pháp bền vững nhất bởi chỉ khi yêu, mới bảo vệ được những cái mình yêu. Nếu bắt người khác phải yêu sẽ không bền vững. 

Nhà báo Diệu Bình: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Xin ông chia sẻ rõ hơn về vai trò và những đóng góp của văn hóa vào sự phát triển của đất nước, đặc biệt trong hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Khi vị thế của đất nước được nâng lên, trong đó có sự đóng góp tích cực và hiệu quả của văn hóa. Nếu văn hóa nước ngoài hoặc là không có tác động rõ rệt, ta sẽ không có vị thế như hôm nay. 

Văn hóa là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ sự phát triển xã hội nhưng mặt khác, chúng ta chưa phát huy hết sức mạnh của văn hóa, để văn hóa góp phần hiệu quả hơn nữa, cao hơn nữa mới tạo nên vị thế của đất nước. Điều này Đảng cũng đã nói, văn hóa phát triển chưa tương xứng với các lĩnh vực khác, kinh tế, chính trị và xã hội.

Một mặt tôi tự hào vì văn hóa đã góp phần trực tiếp, tích cực cho vị thế đất nước nhưng mặt khác tôi lo lắng, cần phát huy hơn nữa tiềm lực, nội lực của văn hóa cho sự phát triển chung, toàn cục của đất nước trong tương lai. 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Trong công cuộc đổi mới, ta đã làm được rất nhiều điều cho văn hóa. Đầu tiên, nhận thức về văn hóa ngày càng đầy đủ hơn, khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa trong sự phát triển toàn diện của đất nước. Chính vì thế có 2 Nghị quyết quan trọng về văn hóa: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI (hay gọi là Nghị quyết 33) năm 2014. 

Trong thời gian ngắn, Việt Nam có 2 nghị quyết về văn hóa, ngoài ra còn có Nghị quyết 23 tổng kết 15 năm, các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa… Điều này chứng minh rằng, nhận thức về văn hóa ngày càng đầy đủ, đúng đắn để văn hóa dẫn dắt sự phát triển của đất nước; đời sống văn hóa phong phú và hấp dẫn hơn.

Nhiều sản phẩm văn hóa nghệ thuật đến với mọi người, làm cho đời sống tinh thần hấp dẫn hơn, phong phú hơn và cảm thấy cuộc sống có nhiều ý nghĩa hơn. Về mặt di sản, rất nhiều di sản văn hóa được ghi danh, tôn vinh, bao gồm cả vật thể và phi vật thể làm kho tàng di sản văn hóa đa dạng, phong phú, có vị trí nhất định trong dòng chảy văn hóa thế giới. 

Hay các di sản văn hóa cũng được ghi danh ở cấp quốc gia, cấp tỉnh, các nghệ nhân cũng có chính sách riêng, các luật về di sản văn hóa cũng dần hoàn thiện hơn. Nguồn lực hỗ trợ cho phát triển văn hóa từ nhân lực, cơ sở vật chất, đầu tư tài chính… cũng có rất nhiều hỗ trợ và từ đó văn hóa quay trở lại tác động tích cực vào kinh tế - xã hội của đất nước. Tôi thấy điều rất có giá trị được thể hiện qua chính sách là “Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030” cho thấy sự kết nối của văn hóa đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 

Nếu phát huy được sức mạnh của văn hóa thì không chỉ con người được hưởng lợi, nền kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước cũng được hưởng lợi theo. Đây là lý do tại sao năm 2019, khi thống kê lại đóng góp của lĩnh vực công nghiệp văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, công nghiệp văn hóa đã đóng góp 3,61% vào tăng trưởng GDP của đất nước. Con số này khiến chúng ta phải giật mình vì lâu nay vẫn nghĩ văn hóa là lĩnh vực tiêu tiền nhưng không phải. Bây giờ, bên cạnh giá trị tinh thần, giúp điều tiết sự phát triển đất nước, còn có đóng góp về giá trị vật chất. Toàn bộ những ví dụ này cho ta nhận thức đúng đắn, sự toàn diện hơn của văn hóa và thấy được mối quan hệ của văn hóa với sự phát triển toàn diện của đất nước trong thời gian vừa qua. 

Vị thế đất nước được nâng lên có sự đóng góp tích cực và hiệu quả của văn hóa.

Mũi đột phá trong giai đoạn mới

Nhà báo Diệu Bình: Thưa PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Văn kiện Đại hội Đảng XIII không chỉ đặt ra vấn đề đúc kết, xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người, mà còn nhấn mạnh, làm rõ hơn yêu cầu về xây dựng “hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người” gắn với giữ gìn, phát triển “hệ giá trị gia đình Việt Nam” trong thời kỳ mới. Vậy hệ giá trị gia đình Việt Nam ở đây được hiểu thế nào, thưa ông? 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Trên thế giới, nước nào cũng coi trọng yếu tố gia đình. Vì thế vào những dịp Noel, đầu năm mới, người dân trên toàn thế giới đều trở về với gia đình. Ở Việt Nam, gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng. Ngoài xã hội, ta gọi nhau bằng cô, bác, chú, dì đúng theo cách gọi trong gia đình, tức là ta coi xã hội là gia đình mở rộng. 

Khi giữ được các rường cột ở trong gia đình, những gia phong, gia giáo, gia quy… tức là giữ được rường cột cho toàn xã hội. Đó là lý do tại sao phải tập trung xây dựng hệ giá trị gia đình để từ đó trở thành môi trường giáo dục cho cá nhân. Khi một gia đình tốt, tức là có cá nhân tốt. Gia đình là tế bào của xã hội. Mỗi một gia đình tốt thì có cá nhân tốt, gia đình tốt thì tạo ra xã hội tốt nên cần có những tế bào xã hội tốt đẹp và tế bào xã hội tốt đẹp được điều chỉnh bởi hệ giá trị. Khi xây dựng hệ giá trị gia đình là mong muốn tốt chung cho tất cả mọi người, xã hội.

Nhà báo Diệu Bình: Việc đưa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới vào cuộc sống có những khó khăn, thuận lợi như thế nào và cần phải thực hiện những giải pháp gì, thưa ông?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Về thuận lợi, trong khoảng 1 năm nay, sau Đại hội XIII của Đảng và sau phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về văn hóa vào tháng 11/2021, nhận thức về văn hóa, về các hệ giá trị trong Đảng, trong cán bộ… đã được nâng cao rất rõ. Trước kia nhiều người thờ ơ, ít quan tâm nhưng nay đã trở thành nhu cầu của mỗi người dân là cần phải xác định, định hướng cho được hệ giá trị này để sống một cách chủ động và sống với niềm tin thực sự vào sự phát triển của xã hội.

Điều này cực kỳ quan trọng, nếu không có tính chủ động và niềm tin thì không thể thực hiện được. Hiện nay ta đang đứng trước sự thuận lợi đó, nếu làm mất thời cơ sẽ rất nguy hiểm bởi thời kỳ quá độ là cuộc đấu tranh cực kỳ phức tạp. 

Đi cùng với những thuận lợi, ta cũng đứng trước những thách thức mới. Làm văn hóa không thể làm thời vụ, phong trào, khẩu hiệu mà phải làm văn hóa như Lênin nói là làm với sự bài bản, làm với sự kiên trì, một sự sáng tạo, một tính khoa học. Điều đó khác với các hoạt động về kinh tế và khác với một cuộc chiến tranh. 

Lênin từng nói, một cuộc chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm nhưng nó vẫn kết thúc. Một công trình kinh tế kéo dài nhưng công trình đó vẫn phải hoàn thành còn văn hóa không có bắt đầu và không có kết thúc. Việc xây dựng các hệ giá trị này mới bắt đầu nhưng không có kết thúc, sẽ phải làm đi làm lại nhiều lần trong giai đoạn sắp tới. 

Đây là một đòi hỏi, một tư duy khoa học của lãnh đạo văn hóa, của người chỉ đạo văn hóa của những người hoạt động văn hóa, đội ngũ những người sáng tạo văn hóa. Đây là khó khăn rất lớn. Chúng ta có thói quen làm văn hóa như là làm thời vụ, phong trào, khẩu hiệu, xong rồi lại ra đi. Ta không thể tiếp tục làm văn hóa như vậy vì nó không có kết thúc, phải làm đi, làm lại nhiều lần. Các hệ giá trị này xây dựng xong, phải nuôi dưỡng, đưa vào đời sống, thử nghiệm, đúc kết và bổ sung. 

Những thuận lợi, khó khăn, thử thách đặt ra trước hết nằm trong tư duy, nhận thức. Tôi tin rằng xã hội Việt Nam trong tình hình hiện nay có một khát vọng muốn có được hệ giá trị, để họ sống bản lĩnh, tự tin, vươn tới cuộc sống yên bình, hạnh phúc trên những giá trị đã được khẳng định. 

Làm văn hóa không thể làm thời vụ, phong trào, khẩu hiệu.

Nhà báo Diệu Bình: GS.TS Đinh Xuân Dũng vừa chia sẻ về những thuận lợi, khó khăn trong việc đưa 4 hệ giá trị vào cuộc sống. Thưa PGS.TS Bùi Hoài Sơn, chúng ta phải làm gì để khắc phục những yếu kém và phát huy hơn nữa những thành tựu của giá trị văn hóa trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước? 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tôi đồng ý với ý kiến của GS.TS Đinh Xuân Dũng về những thuận lợi, khó khăn. Xác định được như vậy mới đưa được những giá trị mà mong muốn vào trong cuộc sống. Khi tư duy theo cách giá trị rất quan trọng, nhất định sẽ thực hiện thành công. Quá trình này không thể làm một sớm, một chiều mà là sự cố gắng lâu dài, bền bỉ. Giải pháp để xử lý những vấn đề này rất quan trọng, mang tính đồng bộ để các hệ giá trị thực sự đi vào cuộc sống, mang tính khả thi. 

Thứ nhất, cần phải có nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa các hệ giá trị trong việc xây dựng đất nước. Khi có ý thức như vậy mới có những hành động cụ thể để thực hiện. 

Thứ hai, các hệ giá trị này chỉ có thể được thực hiện trong môi trường thuận lợi, phù hợp. Môi trường thuận lợi, phù hợp chính là thể chế và các chính sách cụ thể. Cần phải ban hành, sửa đổi luật pháp để những hệ giá trị này được vận hành. 

Có những luật liên quan trực tiếp đến văn hóa, thường ta nói đến văn hóa, có những giá trị trực tiếp liên quan đến văn hóa. Ví dụ phải sửa Luật Hôn nhân gia đình, sửa luật về văn hóa, nhưng văn hóa lại là lĩnh vực liên quan đến các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Nhiều vấn đề của văn hóa đôi khi xuất phát từ kinh tế, chính trị, giáo dục, khoa học công nghệ… Chính vì vậy, cần tạo ra hệ thống luật pháp tương thích, đầy đủ cho sự phát triển văn hóa. 

Thậm chí những luật tưởng không liên quan đến văn hóa như luật về thuế, đất đai, xét một cách kỹ lưỡng, các luật này rất liên quan, ảnh hưởng mạnh mẽ đến phát triển văn hóa, định hướng giáo dục về con người. Khi ban hành bất kỳ luật nào, cũng phải lồng ghép những giá trị về văn hóa, những yếu tố về con người ở trong đó để tạo ra môi trường đồng bộ, lành mạnh cho sự phát triển của các hệ giá trị.

Thứ ba, phải đầu tư nguồn lực, đầu tiên phải nghĩ đến nguồn nhân lực. Tôi nghĩ, giá trị được kết tinh bởi những con người cụ thể, bởi những hình tượng cụ thể nhưng nó được thể hiện bởi những hành động cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng văn hóa, là kết tinh của những giá trị văn hóa, những hành động cụ thể. Khi nói đến giá trị nhiều khi mênh mông, trừu tượng nhưng những hành động cụ thể như là xin lỗi, cảm ơn, giúp đỡ người qua đường chính là cụ thể hóa của những giá trị. Nhiều khi nói những giá trị theo cách chung, chúng ta cần hơn ở những khía cạnh cụ thể, bằng những lời ăn, tiếng nói, sự giao tiếp, ứng xử, chia sẻ cảm thông… Tất cả chính là câu chuyện của giá trị và phải đào tạo, phải có những con người làm gương, có những tấm gương tốt, truyền cảm hứng cho xã hội. 

Nói về giá trị theo những cách cụ thể, không chỉ là con người mà đầu tư về tài chính cũng rất quan trọng. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, cách dễ thu hút nhất là những gì liên quan đến lợi ích tài chính. Khi bảo vệ di sản văn hóa, không chỉ thấy những giá trị mang tính tưởng tượng mà có giá trị thực tiễn thì người ta sẽ đầu tư hơn cho di sản văn hóa. Như du lịch cộng đồng ở miền núi khi đồng bào người H’Mông thấy được những giá trị văn hóa của dân tộc mình, từ kiến trúc nhà ở, món ăn mèn mén hay những sinh hoạt văn hóa nghệ thuật khác rất hấp dẫn với du khách. Từ sự hấp dẫn đó, du khách tìm đến, đồng bào người H’Mông có thể thu được tiền sẽ chăm lo cho việc bảo tồn, phát huy những giá trị di sản văn hóa. Những yếu tố kinh tế như thế cũng rất quan trọng, Nhà nước phải có đầu tư cho văn hóa, một chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa để từ đó thấy được những gì nhà nước nên tập trung, quan tâm, đầu tư. 

Văn hóa nghệ thuật là một lĩnh vực đặc biệt tinh tế, có những thứ phù hợp với thị trường nhưng có những thứ không phù hợp với thị trường. Không phải vì nó không phù hợp với thị trường mà ta bỏ quên để nó biến mất cùng với thời gian. Ví dụ như nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, có thể ngày hôm nay chưa phù hợp nhưng sẽ có ngày có thể phù hợp. Ở thời điểm nhất định, ta lại lấy được chất liệu giá trị văn hóa truyền thống đó để phát huy những biểu tượng của dân tộc. Muốn như vậy, phải có sự đầu tư của Nhà nước, gìn giữ những gì xã hội không làm. Chương trình mục tiêu như vậy rất cần thiết. Các thiết chế văn hóa như bảo tàng, thư viện là những nơi để lưu giữ tập trung, tỏa sáng, thực hành những giá trị đó, tức là xây dựng những thiết chế xứng tầm với thời đại Hồ Chí Minh… Phải nghĩ nhiều hơn đến giải pháp mang tính đồng bộ, từ đó phát huy những giá trị, bao gồm cả giá trị quốc gia, giá trị gia đình, giá trị văn hóa hay là giá trị về con người Việt Nam.

Cần phải ban hành, sửa đổi luật pháp để những hệ giá trị này được vận hành. 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa GS.TS Đinh Xuân Dũng, xin ông đưa ra dự báo các xu hướng phát triển văn hóa, xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ là gì? 

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Trong tình hình đất nước, quốc tế đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp, việc đặt câu hỏi dự báo với tôi là điều khó khăn nhưng với tư cách là một người trăn trở với vấn đề này, tôi mạnh dạn nêu ra một vài dự báo như sau:

Thứ nhất: Thời gian tới có thể có một cuộc đấu tranh thầm lặng nhưng quyết liệt giữa những giá trị văn hóa tốt đẹp với những giá trị phản văn hóa, dưới văn hóa trong xã hội, như tôi nói là trong thời kỳ quá độ. 

Vừa qua, theo dõi những diễn biến của đời sống thấy xuất hiện những nhân tố rất mới, rất tốt đẹp, lương thiện, con người tử tế nhưng đồng thời cũng báo hiệu và xuất hiện có phần tràn lan những yếu tố ác độc, có phần nguy hiểm hơn trước đây. Vì vậy, dự báo đầu tiên của tôi là phải nhìn nhận trên lĩnh vực văn hóa có một cuộc đấu tranh thầm lặng, tưởng như là đơn giản nhưng rất quyết liệt và phức tạp. Chỉ trong cuộc đấu tranh đó, chúng ta mới bảo vệ, khẳng định và phát triển được con người Việt Nam, trên cơ sở giành giật con người về với chủ nghĩa xã hội, về với đất nước, về với Tổ quốc.

Thứ hai: Những giá trị cốt lõi trong truyền thống của văn hóa dân tộc vẫn được giữ vững, mặc dù diễn biến sẽ rất phức tạp. Những giá trị đó như lòng yêu nước, sự đoàn kết, nghĩa tình, nhân ái… cần được giữ vững, chắc chắn sẽ được bảo vệ. 

Thứ ba: Những giá trị mới đang hình thành và phát triển trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mà trước kia mới chỉ là mầm mống như: Ý thức tự chịu trách nhiệm cá nhân, sự sáng tạo, bản lĩnh, làm việc nhóm, làm việc tập thể của hệ thống dây chuyền công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trúng với những quy luật phát triển của văn hóa, khát vọng của con người Việt Nam. Xu hướng tích cực sẽ chiến thắng trong cuộc đấu tranh này sẽ góp phần cho sự phát triển của đất nước, theo nghị quyết của Đảng là toàn diện và bền vững. Sự góp phần của văn hóa là yếu tố trực tiếp, hay nói một cách khác phải trở thành mũi đột phá trong giai đoạn mới. 

Nhà báo Diệu Bình: Để những quan điểm, mục tiêu, giải pháp về phát triển văn hóa, con người Việt Nam mà Đại hội XIII của Đảng đề ra trở thành hiện thực, chúng ta cần tập trung vào những giải pháp nào, thưa ông? 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Để xây dựng những hệ giá trị có khá nhiều giải pháp khác nhau, tuy nhiên, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức vẫn là quan trọng nhất. Từ việc tuyên truyền, nhận thức cũng cần có những tấm gương, phải dẹp cái xấu, phải cụ thể hóa những giá trị thành các nội hàm hết sức cụ thể. 

Trong mỗi bối cảnh xã hội khác nhau, các giá trị thể hiện theo những cách khác nhau. Ví dụ yêu nước là giá trị xuyên suốt, ở mỗi giai đoạn khác nhau thì lòng yêu nước thể hiện khác nhau, vì vậy, cần cụ thể hóa những giá trị này. Trước đây, lòng yêu nước là phải đi bộ đội, ra mặt trận hoặc phục vụ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc nhưng yêu nước bây giờ theo cách khác. Yêu nước thể hiện ở việc tận tâm, cống hiến để phát triển kinh tế theo những cách tốt đẹp, trong sạch, từ đó tạo ra sự giàu có cho quốc gia. Đó cũng là một hành động yêu nước. Chúng ta làm việc, cống hiến để có được hình ảnh tốt hơn về con người, đất nước, dân tộc và văn hóa Việt Nam. Ở những người khác nhau, tình yêu nước cũng được thể hiện khác nhau.

Một hệ giá trị chỉ có thể được vận hành trong môi trường tốt. Môi trường đó có thể là pháp lý, chính trị, văn hóa, gia đình, nhà trường và xã hội. Tất cả những môi trường đó phải đồng bộ, từ đó những giá trị sẽ được vận hành, tỏa sáng. Giá trị được thể hiện ở những hành động hết sức cụ thể. Những hành động nhỏ thôi nhưng đại diện cho giá trị nào đó, một lời cảm ơn, xin lỗi, tinh thần trách nhiệm với công việc… chính là thể hiện của những giá trị cụ thể. Ta thực hành được những hành động đó tức là thực hành được những giá trị.

Khi nói về giá trị, ta thấy cái gì cũng có giá trị cả nhưng nếu có quá nhiều giá trị đồng nghĩa với việc không có giá trị gì cả. Đó là lý do tại sao trong những giá trị về gia đình, văn hóa, chỉ giới hạn 4 - 5 giá trị, về con người có 8 - 9 giá trị, quốc gia cũng tương tự như vậy. Để có sự tập trung nên giới hạn các giá trị, từ đó tập trung nguồn lực, sức mạnh, tập trung sự quan tâm… lúc đó giá trị mới giúp phát triển. 

Trong mỗi bối cảnh xã hội khác nhau, các giá trị thể hiện theo những cách khác nhau. 

Sức mạnh mềm của quốc gia

Nhà báo Diệu Bình: Thưa GS.TS Đinh Xuân Dũng, trong tình hình mới, các địa phương cần chú trọng những vấn đề gì để thực hiện tốt chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam? 

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Các địa phương nói riêng và cả nước nói chung cần có quy hoạch và một chương trình hành động mang tính toàn diện và đồng bộ, có sự thống nhất giữa kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Phải đặt văn hóa trở thành một động lực của sự phát triển. Văn kiện Đại hội Đảng XIII đã bàn rất nhiều, khẳng định văn hóa phải là nhân tố trong đột phá thứ hai của sự nghiệp cách mạng, tức là đột phá về đào tạo nhân lực, đột phá về xây dựng sức mạnh của con người Việt Nam.

Quá trình công tác đến nhiều địa phương trong cả nước, tôi cảm nhận rằng việc đánh giá và xác định vị trí của văn hóa trong sự phát triển toàn diện, vững chắc của địa phương là chưa rõ. Người ta chú ý đến hiệu quả của mặt kinh tế, sự ổn định về mặt chính trị, sự giải quyết về mặt xã hội nhưng văn hóa thì ít được chú ý. Nó không được xác định về mặt định lượng, chú ý về mặt chất lượng, vì thế vai trò của văn hóa để tác động tích cực, trực tiếp vào sự phát triển bền vững của địa phương, cả nước chưa thể hiện đúng với tiềm năng và vị trị vốn có. 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa PGS.TS Bùi Hoài Sơn, có ý kiến cho rằng, chúng ta đã nghiên cứu về hệ giá trị từ rất lâu và bây giờ là thời điểm vàng phải xác định rõ, công bố những hệ giá trị này cũng như triển khai chúng trong thực tế. Ông đánh giá thế nào về ý kiến này?

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tôi thấy có ít nhất 3 đề tài cấp nhà nước về hệ giá trị. Đầu tiên là của GS.TS Ngô Đức Thịnh, thứ hai là của GS.TS Trần Ngọc Thêm và thứ ba là của TS Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyên Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ba đề tài này có cách tiếp cận khá là toàn diện và đầy đủ về hệ giá trị. Mỗi đề tài đưa ra một hệ giá trị khác nhau. Điều nay cho thấy, việc nghiên cứu hệ giá trị thực sự là đề tài phức tạp nên tùy từng quan niệm khác nhau, tùy từng cách tiếp cận khác nhau có thể đưa ra những hệ giá trị khác nhau. 

Bây giờ là lúc cần có sự thống nhất về mặt nhận thức, từ đó đưa ra một giá trị chung, cụ thể để phát triển đất nước. Chúng ta không thể bàn mãi, các nhà khoa học có thể bàn nhưng các nhà chính trị cần có sự định vị một cách vững chắc để dẫn dắt. Nếu bàn mãi, không đưa vào vận hành trong thực tiễn cuộc sống, hệ giá trị sẽ không có giá trị về mặt thực tế. 

Đó là lý do trong bài phát biểu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra những gợi ý về hệ giá trị như GS.TS Đinh Xuân Dũng nói. Tổng Bí thư đã đưa ra hệ giá trị đó dưới dạng câu hỏi, để gợi mở cho các nhà khoa học, các nhà chính trị cùng nhau bàn thảo rồi thống nhất các hệ giá trị. Từ việc thống nhất các hệ giá trị mới thống nhất được nhận thức, nguồn lực, quyết tâm và giúp có được sức mạnh mới. 

Trong bối cảnh nếu không có hệ giá trị, ta rất dễ bị lãng tâm bởi rất nhiều các mối quan tâm khác nhau. Bản thân mỗi người là một ví dụ, ai cũng có rất nhiều những mối quan tâm khác nhau, từ thời trang, mỹ phẩm, phim ảnh, âm nhạc. Nếu không có mục đích cụ thể thì những quan tâm thường nhật sẽ cuốn đi và cuối cùng nhìn lại ta không làm được gì vì không có mục đích, không có ao ước, không mục tiêu. 

Cụ thể ở đây là không có giá trị để theo đuổi. Đó là lý do tại sao trong thời điểm này, không thể muộn hơn được, cần xác định các hệ giá trị để từ đó có sự tập trung mối quan tâm. Sau 5 năm, 10 năm nữa mới thấy những gì đặt nền móng, đưa ra quyết tâm ngày hôm nay sẽ có hiệu quả, thực sự trở thành động lực phát triển đất nước từ những hệ giá trị này. 

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Trong khoảng 10, 15 năm qua chúng ta nghiên cứu về hệ giá trị này, có nhiều việc đã thành tựu trên hai kênh. Kênh thứ nhất là các văn kiện của Đảng. Đại hội VIII chưa nói đến giá trị, những đức tính của người Việt Nam nhưng Đại hội IX đã đúc kết, xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam liên tục cho đến nay, gần nhất là phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi mở ra hệ giá trị đó. Kênh thứ hai, tôi ước tính có khoảng 40 – 50 công trình nghiên cứu và những bài nghiên cứu sâu, nhiều mặt của các nhà khoa học như PGS.TS Bùi Hoài Sơn vừa dẫn chứng.

Tôi là người may mắn khi được làm việc trong Tổ biên tập Văn kiện Đại hội Đảng, từ Đại hội IX, X, XI; trong Cương lĩnh xây dựng đất nước 2011, Hiến pháp xây dựng đất nước 2013 tôi là ủy viên ban biên tập. Trong Đại hội Đảng XIII, sau khi xác định việc xây dựng hệ giá trị là quan trọng, tôi đã đề nghị viết 3 cụm từ sau đây để xây dựng hệ giá trị: 1/ Tập trung nghiên cứu, 2/ Xác định, 3/ Triển khai trong thực tiễn. Tức là không chỉ nghiên cứu mà phải kết hợp cả 3 khâu đó. Đây là thời điểm vàng, thời điểm chín muồi, nếu không là hơi muộn để đưa hệ giá trị vào thực tiễn. 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa GS.TS Đinh Xuân Dũng, văn hóa được coi là sức mạnh mềm của đất nước trong thời kỳ hội nhập sâu rộng hiện nay. Chúng ta cần làm thế nào để giữ gìn bản sắc văn hóa, phát huy sức mạnh mềm trong quá trình phát triển và hội nhập?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Sức mạnh mềm của một quốc gia không chỉ là văn hóa mà còn là những vấn đề về ngoại giao, sự thân thiện, ứng xử mềm mỏng hợp tình của Nhà nước, của Đảng đối với quốc gia khác, đáp ứng nhu cầu quốc tế trong tình hình hội nhập. 

Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng, trực tiếp tạo nên sức mạnh mềm của quốc gia. Chính vì thế, các quốc gia hiện nay trên thế giới đều đồng thời phát triển sức mạnh kinh tế của mình như là sức mạnh cứng. Một số quốc gia còn muốn tăng cường về vũ trang, sức mạnh cứng về mặt quân sự. Nhưng nhiều quốc gia đều cảm thấy về lâu dài, việc xây dựng sức mạnh mềm, trong đó lấy văn hóa là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất. 

Việt Nam có đủ các thành tựu, những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và văn hóa hiện đại để tạo nên sức mạnh mềm đó. Vì thế, tạo nên sức mạnh mềm trong văn hóa để tạo ra uy tín, tình cảm, sự đồng cảm, sự thông cảm của dân tộc ta với dân tộc khác. Từ đó, tạo nên tác động với các hoạt động kinh tế, chính trị. 

Hiện nay ở các nước trên thế giới, không chỉ tập trung xây dựng sức mạnh cứng mà còn xây dựng, nâng cao sức mạnh mềm trong giai đoạn hội nhập. Bởi vậy, tôi mong rằng phát huy hết những đặc sắc của văn hóa Việt Nam, từ làm điệu dân ca, một điệu múa, lễ hội, di sản và tạo nên sức mạnh mềm trong con người Việt Nam. Con người Việt Nam tự tin vào chính mình để sức mạnh mềm đó trở thành tiềm lực của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, vươn ra thế giới. 

Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng, trực tiếp tạo nên sức mạnh mềm của quốc gia. 

Nhà báo Diệu Bình: Thời gian tới, chúng ta cần phương thức nào để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chấn hưng và phát triển hệ giá trị văn hoá Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh hiện nay? Xin mời PGS.TS Bùi Hoài Sơn. 

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Chúng ta phải xuất phát từ việc xây dựng một khung chính sách, khung thể chế, hệ thống luật pháp tạo điều kiện tốt hơn cho sự phát triển văn hóa. Những yếu tố luật pháp có giá trị rất lớn trong sự phát triển của văn hóa, nếu giải quyết được bài toán về chính sách, về luật pháp, sẽ có những giải pháp tháo gỡ, khơi nguồn cho nhiều vấn đề cũng như sự phát triển của văn hóa. 

Ví dụ như Luật Đầu tư công không có lĩnh vực văn hóa, muốn phát triển văn hóa thì phải khơi thông nguồn lực từ xã hội, phải có hợp tác công tư. Trường hợp như chùa Tam Chúc (Hà Nam) nếu chỉ để Nhà nước thực hiện thì 10 năm, 20 năm thậm chí lâu hơn cũng chưa có được; nếu có sự hợp tác công tư về văn hóa thì sẽ có những công trình quy mô như vậy. So sánh công trình nhà nước với các công trình tư nhân, những công trình tư nhân có rất nhiều sáng tạo, rất nhanh nhẹn, tích cực. Nếu xử lý được bài toàn về luật pháp sẽ tạo được sự phát triển đổi mới. 

Hay về thuế, nước Mỹ không có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhưng văn hóa của nước Mỹ trở thành sức mạnh trên toàn thế giới, khiến nhiều người lo ngại trào lưu Mỹ hóa, nói tiếng Mỹ, xem phim Mỹ, ăn theo kiểu Mỹ… Chính sách gì, pháp luật gì khiến văn hóa Mỹ biến sức mạnh mềm của nước Mỹ lớn đến như vậy. Qua nghiên cứu cho thấy, lý do là chính sách về thuế khi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức hễ đóng góp hỗ trợ cho sự phát triển văn hóa thì được giảm thuế. Nó tạo ra hiệu ứng tích cực của tất cả các bên. Những người đóng góp tiền hỗ trợ cho văn hóa, nghệ thuật thì được giảm thuế, không phải đóng tiền thuế cho nhà nước. Họ thể hiện lòng hảo tâm, sự quan tâm của mình đến lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. các tổ chức văn hóa, nghệ thuật có cơ hội phát triển, có thể giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa… Khi phát triển, họ lại đóng thuế cho nhà nước. 

Một ví dụ thành phố cảng Liverpool ở Anh cho thấy, tiền chi cho văn hóa đem lại 3 đồng, chứ không phải chi tiền cho văn hóa là mất. Ngoài vấn đề về kinh tế, văn hóa mang lại sự hào hứng, chất lượng cuộc sống hơn và cái đó là vô giá. 

Chúng ta đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước, đầu tư cho con người, đầu tư cho cuộc sống hạnh phúc. Nó sẽ giúp xử lý các vấn đề khác, từ môi trường, pháp luật, theo hướng tạo điều kiện phát triển văn hóa, tạo ra những yếu tố tích cực để xây dựng con người. Đồng thời tháo gỡ khó khăn để phát triển văn hóa, xây dựng giá trị. 

Đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước.

Nhà báo Diệu Bình: Thưa GS.TS Đinh Xuân Dũng, mặc dù các hệ giá trị này đã được triển khai thực hiện từ lâu và không ngừng được củng cố, bồi đắp qua thời gian nhưng làm sao để chúng trở thành mạch nguồn cuộn chảy hết sức tự nhiên trong cuộc sống, tạo thành sức mạnh nội sinh để xây dựng và phát triển đất nước ngày càng hùng cường hơn?

GS.TS Đinh Xuân Dũng: Trong quá trình xây dựng, phát triển văn hóa có 3 khâu rất quan trọng. Thứ nhất: Định hướng đúng, thể hiện trong đường lối, trong văn kiện của Đảng và Nhà nước. Thứ hai: Thể chế, chính sách, chế tài cụ thể hóa định hướng, chủ trương ấy. Thứ ba: Chỉ đạo, tổ chức trong thực tiễn. 

Hệ giá trị văn hóa của chúng ta về mặt định hướng, chủ trương là đúng, hết sức cần thiết, là thời kỳ xã hội đang rất cần. Khâu thứ hai là nghiên cứu đồng thời những quy chế, chế độ, chính sách, kết luận để đưa nó vào thực tiễn. Khâu này chúng ta chưa làm, vì thế hệ giá trị có lúc vẫn lơ lửng, chưa thực sự lan tỏa trong đời sống hoặc định hình cho con người trong hoạt động. Khâu thứ ba rất quan trọng, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách kiên trì, bài bản, tinh tế, khoa học, nhẫn nại trong quá trình đấu tranh chống lại những cái phản văn hóa. Khâu thứ ba phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý tham mưu trên lĩnh vực văn hóa. Đó là điểm nghẽn ai cũng thấy đang thiếu nên trong Nghị quyết Văn kiện Đại hội XIII có đề cập là tìm mọi cách khắc phục những thiếu sót và những cái thiếu ở trong đội ngũ cán bộ văn hóa, để xây dựng hệ giá trị, làm cho tất cả những người lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu lĩnh vực văn hóa thấu hiểu ý nghĩa quan trọng của việc xây dựng, triển khai hệ giá trị này. Đồng thời có năng lực chỉ đạo một cách kiên trì và nhẫn nại, một cách khoa học và sáng tạo. 

Tôi được biết, Ban Tuyên giáo Trung ương đang chuẩn bị cho cụ thể hóa xác định nội hàm của các hệ giá trị này, trên cơ sở đó triển khai thực hiện. Để các hệ giá trị này trở thành mạch nguồn cuộn chảy hết sức tự nhiên, lan tỏa trong cuộc sống là mong ước của tất cả mọi người, tuy nhiên, phải làm trọn 3 khâu. Đó chính là thách thức và cũng là nhu cầu của cuộc cách mạnh trong giai đoạn hiện nay. 

Xuân Quý, Võ Thu, Ngọc Trang, Hoàng Giang, Hoàng Hiệp, Thế Long