
- Gồm Thủ tướng Trần Trọng Kim và 10 bộ trưởng
- Thương lượng giành quyền quản lý Nam Kỳ và các thành phố lớn
- Thống nhất ngôn ngữ trong nhà trường và công sở là tiếng Việt
- Các phố mang tên người Pháp ở Hà Nội được đổi bằng tên các danh nhân, anh hùng dân tộc Việt Nam
- Chính phủ không có quân đội
- Quảng Ngãi: Ngày 11/3, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy giết giặc cướp đồn, thành lập chính quyền cách mạng, thành lập đội du kích Ba Tơ, căn cứ địa cách mạng Ba Tơ
- Căn cứ địa Việt Bắc: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu Quốc quân đã giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên (khu giải phóng Việt Bắc được thành lập)
- Các đô thị lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn... liên tiếp nổ ra những cuộc biểu tình chống Nhật
- Các vùng nông thôn: Phong trào kháng Nhật cứu nước dâng lên mạnh mẽ, tiêu biểu nhất là phong trào “Phá kho thóc của Nhật giải quyết nạn đói”



- Quần chúng cách mạng có sự hỗ trợ của các đội quân tự vệ chiến đấu lần lượt chiếm Phủ Khâm sai, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện, trại Bảo an binh…Nhật không chịu nhượng bộ Ngân hàng Đông Dương
- Thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời
- Thắng lợi của Hà Nội mở đường cho thắng lợi của cả nước











ĐƠN VỊ | SỐ LƯỢNG |
---|---|
Bộ Chỉ huy quân đoàn 38 | 1.000 người |
Khu phòng thủ Bắc Đông Dương | |
Sư đoàn 21 | 15.000 người |
Trung đoàn bộ binh 84 | 4.000 người |
Đơn vị phục vụ (vận tải, y tế…) | 880 người |
Khu phòng thủ Trung Đông Dương | |
Lữ đoàn 34 độc lập | 5.000 người |
Trung đoàn sơn pháo 52 | 900 người |
Đơn vị phục vụ | 200 người |
Khu phòng thủ Nam Đông Dương | |
Sư đoàn 2 | 11.000 người |
Trung đoàn phòng không 101 | 600 người |
Đơn vị phục vụ | 500 người |
Đơn vị thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của Quân đoàn 38 | |
Sư đoàn 55 | 10.000 người |
Đơn vị Hải quân Đông Dương | 3.700 người |
Đơn vị Không quân | 23.000 người |
Trung đoàn 5 thông tin liên lạc | 500 người |
Trung đoàn đường sắt | 2.500 người |
Đơn vị vận tải | 1.080 người |
Tổng cộng | 82.260 người |


- Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương
- Mặt trận Việt Minh
- Quân chủ lực: Giải phóng quân (13 đại đội)
- Các đội vũ trang thoát ly ở các tỉnh, châu, huyện và các đội quân địa phương
- Các đội tự vệ chiến đấu, tự vệ cứu quốc ở các làng xã, xí nghiệp, đường phố,v.v…




Chính phủ lâm thời ra mắt Quốc dân đồng bào ngày 2/9/1945
Chủ tịch Chính phủ lâm thời kiêm Bộ trưởng Ngoại giao | Hồ Chí Minh |
Bộ trưởng Bộ Nội vụ | Võ Nguyên Giáp |
Bộ trưởng Bộ Thông tin, Tuyên truyền | Trần Huy Liệu |
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng | Chu Văn Tấn |
Bộ trưởng Bộ Thanh niên | Dương Đức Hiền |
Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia | Nguyễn Mạnh Hà |
Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội | Nguyễn Văn Tố |
Bộ trưởng Bộ Tư pháp | Vũ Trọng Khánh |
Bộ trưởng Bộ Y tế | Phạm Ngọc Thạch |
Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính | Đào Trọng Kim |
Bộ trưởng Bộ Lao động | Lê Văn Hiến |
Bộ trưởng Bộ Tài chính | Phạm Văn Đồng |
Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục | Vũ Đình Hoè |
Bộ trưởng không bộ |
Cù Huy Cận
Nguyễn Văn Xuân
|


- 11/11/1945: Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật
- 25/11/1945: Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”
- 6/1/1946: Tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, chấp nhận 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử của Việt quốc, Việt cách
- 6/3/1946: Ký kết “Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp”, chấp nhận tạm thời hòa hoãn và có nhân nhượng cần thiết để quân Pháp ra miền Bắc
- Tháng 5/1946: Thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
- Tháng 7/1946: Điều tra, khám phá và đưa ra xét xử nhóm phản động ở phố Ôn Như Hầu, triệt tiêu kế hoạch lật đổ chính quyền cách mạng
- 14/9/1946: Ký Tạm ước Việt – Pháp
- 19/12/1946: Kêu gọi Toàn quốc kháng chiến
- Diện tích trồng màu tăng gần 3 lần, sản lượng màu tăng gấp 4 lần sản lượng trung bình/năm (từ năm 1938-1943); giá thóc gạo giảm nhanh. Ở Hà Nội từ 6 đồng/kg đầu năm 1945 xuống còn 2 đồng/kg đầu năm 1946
- 9,5 vạn người xung phong làm giáo viên (nhiều hơn 50 lần số người mà Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ dạy được trong 7 năm dưới sự kìm hãm của thực dân Pháp)
- 3 triệu người đã biết chữ trong tổng số 15 triệu người mù chữ
- Ngày 31/1/1946 sắc lệnh về giấy bạc Việt Nam (đồng tiền Tài chính Việt Nam) phát hành trước tiên từ ngày 3/2/1946 tại các tỉnh Nam Trung bộ. Ngày 23/11/1946, cho phép phát hành giấy bạc Việt Nam trong toàn quốc




HỘI NGHỊ GENÈVE | HỘI NGHỊ PARIS | |
---|---|---|
Thời gian | 4 tháng | 5 năm |
Bắt đầu - kết thúc |
26/4/1954: Khai mạc hội nghị
21/7/1954: Ký Hiệp định
|
13/5/1968: Khai mạc hội nghị
27/1/1973: Ký Hiệp định
|
Các bên tham gia |
|
|
Số phiên họp | 7 phiên toàn thể, 24 phiên họp cấp trưởng đoàn | 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao |
Kết quả |
|
|






Sau niềm vui thống nhất, khó khăn bắt đầu bủa vây: Thiên tai (2 trận lũ lụt năm 1978-1979), địch họa (chiến tranh biên giới Tây Nam, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc), cấm vận bao vây, viện trợ nước ngoài giảm sút hoặc chấm dứt; nền kinh tế kiệt quệ và cơ sở hạ tầng gần như bị phá hủy hoàn toàn.
Cả nước sáp nhập lại còn 38 tỉnh, thành; nền kinh tế dựa vào 2 thành phần cơ bản là quốc doanh và tập thể.
Bức tranh ảm đạm những năm sau 1975 hiện rõ dần: Sản lượng công nghiệp tư doanh từ 13,7 tỷ đồng năm 1976 tụt xuống còn 8,07 tỷ đồng năm 1978. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất chỉ đạt được 50%. Mức tăng trưởng bình quân GDP chỉ đạt 0,4%.
Khủng hoảng nặng nề nhất là hai năm 1979 và 1980, với các số liệu “âm” như GDP giảm 2% và 1,4%, công nghiệp giảm 4,7% và 10,3%. Theo nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNN Lê Minh Hoan, những năm 1976-1981, Việt Nam phải nhập khẩu trên 1 triệu tấn lương thực mỗi năm, tỷ lệ đói nghèo gần 70%.
Theo "Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới, Đặng Phong, Nxb Tri thức
Trong tình thế ngặt nghèo, nhiều xí nghiệp buộc phải “xé rào”, hộ nông dân “khoán chui”… với hàng loạt mũi đột phá can đảm, vượt qua quy chế lỗi thời. Những bước đi trầy trật, mưu trí, sáng tạo này đã được GS kinh tế Đặng Phong viết trong công trình nghiên cứu: “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới.
“Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước Đổi Mới
Nguồn: Mục lục sách “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới, Đặng Phong, Nxb Tri thức
Từ năm 1980 đến 1985, Nhà nước vẫn độc quyền kinh tế đối ngoại, kiểm soát giá cả, phân phối qua hệ thống tem phiếu; mô hình bao cấp thiếu linh hoạt, kìm hãm sản xuất, dẫn đến thiếu lương thực, hàng hóa khan hiếm, chợ đen phát triển.
Thời tem phiếu, mua gì cũng phải xếp hàng; gạo, dầu, đường mua theo tiêu chuẩn. Cán bộ công nhân viên, mỗi tháng tiêu chuẩn 2 lạng rưỡi thịt và cá, dân chỉ được 1 lạng; tiêu chuẩn gạo 13,5 kg (có khi độn khoai, ngô, lúa mạch) và thường xuyên bị mốc. Thậm chí, việc lấy nước sinh hoạt cũng phải xếp hàng. Dân gian truyền nhau những câu lột tả tâm lý xã hội lúc bấy giờ: “Buồn như mất sổ gạo”,”Thủ kho to hơn thủ trưởng”, “Ban đêm cả nước lo việc nhà/Ban ngày cả nhà lo việc nước”…


Cảnh xếp hàng trước các cửa hàng mậu dịch chờ mua nhu yếu phẩm theo chế độ tem phiếu vào những năm cuối 1970, đầu 1980. (Ảnh tư liệu)
Bí bách, ách tắc trong thực tế thúc đẩy Nhà nước tìm tòi lối ra. Những cải cách ban đầu đã được thực hiện, như “khoán 100”, chính sách “3 kế hoạch”…
Năm 1981, Chỉ thị 100-CT/TW (khoán 100) về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp ra đời là bước đột phá được nhân dân tiếp nhận mau chóng và phấn khởi. Ở miền Bắc xuất hiện mấy câu thơ theo thể Bút Tre:
Hoan hô anh Võ Chí Công
Anh cho khoán hộ ruộng đồng tốt tươi...
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Chí Công lúc bấy giờ là người trực tiếp nghiên cứu thực tiễn, tổng kết mô hình “khoán chui” để đề xuất chính sách.
“Nếu khoán mới không đem lại kết quả thì tôi xin chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân”- phát biểu của ông tại hội nghị thảo luận về dự thảo Chỉ thị 100 đã thể hiện bản lĩnh, ý chí của người lãnh đạo hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Từ năm 1981, kinh tế Việt Nam khởi sắc. Nhưng mặt trái của sự "phá rào" là gây ra những lộn xộn, mất trật tự, khiến cho các tư tưởng thủ cựu nổi lên, muốn quay trở lại cơ chế cũ. Nhiều chính sách bị siết lại.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, với tinh thần can đảm, vì nước vì dân, những người gánh vác trọng trách rồi cũng bước ra khỏi sách vở giáo điều để đi đến những quyết định kịp thời, định hình tư duy cải cách, tìm tòi mô hình phát triển, đặt nền móng cho công cuộc Đổi mới.
Năm 1983, tại sự kiện được gọi là “Hội thảo Đà Lạt” tháng 7, có cả Thủ tướng Phạm Văn Ðồng (khi đó gọi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng), Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh, Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Văn Linh, một số giám đốc xí nghiệp vừa nói vừa khóc và đề nghị Trung ương cho phép được thực hiện cơ chế hai giá: Giá Nhà nước cân đối vật tư và giá do xí nghiệp mua vật tư trôi nổi trên thị trường.
Theo lời kể của ông Nguyễn Tiến Năng, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng trên Báo Nhân Dân, khi Thủ tướng đề nghị cho phép TPHCM làm thử cơ chế mới, Chủ tịch Trường Chinh đồng tình và nói địa phương cứ làm nhưng lưu ý phải rất tỉnh táo, làm từng bước, từng phần và thường xuyên báo cáo về Trung ương.
Với cơ chế mới, không chỉ TPHCM mà trong cả nước, các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lưu thông phân phối được "cởi trói" và "bung ra" mạnh mẽ, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Năm 1985, Nhà nước tiến hành cuộc cải cách lớn về giá – lương – tiền; thực thi chính sách đổi tiền: 10 đồng tiền cũ đổi 1 đồng tiền mới, mỗi gia đình chỉ được phép đổi 2000 đồng tiền mới. Cuộc tổng điều chỉnh này bộc lộ nhiều khuyết điểm khiến nền kinh tế xuống dốc, lạm phát có thời gian lên tới trên 700%, hơn 7 triệu người thiếu đói, nền kinh tế rối loạn.
Nhổ dần biển cấm, đại uốn nắn lộ trình
Đột phá là một quá trình vừa đi vừa tìm đường và mở đường. Đổi mới là một cuộc đại uốn nắn lộ trình, tìm lại được xa lộ của quy luật, từ đó cỗ xe của chúng ta đi thênh thang, nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Còn các cuộc đột phá là việc nhổ dần những biển cấm và biển báo sai quy luật, để đưa chúng ta về lại đường đi đúng quy luật.

Toàn cảnh Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Thực tiễn đặt ra câu hỏi sống còn: “Đổi mới hay là chết?”. Với tư duy lý luận mới và quá trình khảo nghiệm thực tiễn, các văn kiện trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được chuẩn bị chặt chẽ.
Đại hội đã đưa ra những chủ trương cải cách, đổi mới mang tính lịch sử. Triết lý sâu sắc trong tư duy đổi mới chính là tư tưởng giải phóng: Đổi mới để giải phóng mọi tiềm năng, phát triển lực lượng sản xuất vì mục đích phục vụ con người, phát triển con người.
Từ 15 đến 18/12/1986
Hà Nội
1.129 đại biểu thay mặt hơn 1,9 triệu đảng viên; 32 đoàn đại biểu quốc tế
Tổ chức:Từ 15 đến 18/12/1986
Địa điểm:Hà Nội
Tham dự:1.129 đại biểu thay mặt hơn 1,9 triệu đảng viên; 32 đoàn đại biểu quốc tế
-
1.Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật
-
2.Chỉ rõ tình hình kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng
-
3.Nghiêm khắc tự phê bình bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí
-
4.Xác định Đổi Mới toàn diện, trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế, giữ vững ổn định chính trị
-
5.Thông qua chương trình đổi mới kinh tế toàn diện theo 3 hướng chính:
-
Chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu
-
Chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của từng doanh nghiệp
-
Chuyển từ kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp sang kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài.

Đổi mới của Tổng Bí thư Trường Chinh
-
3 lần làm Tổng Bí thư: Khóa I (1941-1951), khóa II (1951-1956), khóa V (7/1986-12/1986)
-
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1981-1987)
-
Lập nhóm cố vấn có tư duy đổi mới, tiến hành khảo sát thực tế tại 20 tỉnh, thành
Trường Chinh thường được anh em gọi là anh Mười Nghiêm. Ông quả là con người của những công thức hoàn chỉnh… Cả đời ông có lẽ chỉ có một điều không nghiêm, mà đó là điều rất tốt cho đất nước ta. Vào cuối đời, ông có một sự thay đổi 180 độ về quan điểm kinh tế. Có thể nói đó là một sự lột xác, chuyển từ một người bảo thủ sang một người cấp tiến và là tác giả chính của sự nghiệp Đổi mới.
Trần Việt Phương-Thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Xem bài viết:Nhân cách của người 3 lần làm Tổng Bí thư Đảng
Lật để xem

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh “nói và làm”
-
Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu uỷ Sài Gòn - Gia Định (1945), Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1960)
-
Bí thư Thành ủy TPHCM (1976, 1981-1986)
-
Tổng Bí thư (1986-1991)
-
Ủng hộ mô hình “xé rào”, lắng nghe thực tiễn, khuyến khích các mô hình mới, tổng kết kinh nghiệm để báo cáo lên trung ương khi còn là Bí thư Thành ủy TPHCM
-
Chỉ đạo thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu
-
Khởi xướng Nghị quyết 10 năm 1988 về khoán trong nông nghiệp (Khoán 10)
-
Khởi xướng phong trào “Những việc cần làm ngay” đấu tranh chống tiêu cực, thúc đẩy dân chủ và minh bạch
Lật để xem
Điểm sáng 1987-1989
-
1987
Ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
-
1988
Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ về Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (Khoán 10).
-
1989
Việt Nam xuất khấu gạo đứng thứ 3 thế giới (sau Thái Lan và Mỹ)
-
1988
Lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD (1,038 tỷ)
-
1989
Xóa bỏ chế độ 2 tỷ giá song hành

Vận nước đang tới
GS Vũ Minh Giang


Bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nói với VietNamNet: Từ những năm 1990, Đổi mới được đẩy lên một bước nữa với những công cụ mang lại hiệu quả rất cao. Việc chuyển sang kinh tế thị trường, khuyến khích người dân làm giàu cho mình và cho đất nước đã làm thay đổi toàn diện nền kinh tế.
Năm 1990, Việt Nam đã ban hành một số luật quan trọng thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, trong đó đáng chú ý là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân; 9 năm sau là Luật Doanh nghiệp. Cùng với đó là những chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chấm dứt chế độ 2 giá, để giá ngoại tệ sát với giá thị trường…

Hội chợ quốc tế hàng công nghiệp 20/10/1992. Nguồn: TTXVN – Sách ảnh 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam, NXB Thông tấn

Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Con người của ý chí và hành động
-
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1991-1992)
-
Thủ tướng Chính phủ (1992-1997)
-
Người kiến tạo những công trình lớn của đất nước
Trong các đời Thủ tướng thì Võ Văn Kiệt - Sáu Dân là người làm được nhiều việc lớn nhất cho dân, cho nước.
Cố Thủ tướng Phạm Văn ĐồngPhải là một chính khách dũng cảm, biết đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, ông Võ Văn Kiệt mới có những chỉ đạo táo bạo trong các động thái góp phần làm tan băng quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển khác.
Nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh CầmLuật Đầu tư nước ngoài vào năm 1988 mở đường thu hút nguồn vốn “ngoại”. Năm 2019, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 4.028 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 38.951,7 triệu USD, tương ứng gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai đoạn 1988 - 1990.
Luật Doanh nghiệp ra đời năm 1999 làm bừng dậy khí thế mới, người dân hăng hái làm giàu. Trong thập kỷ 90, chưa đến 40.000 doanh nghiệp ra đời. Khi có Luật Doanh nghiệp, sau một năm đã có thêm 20.000 và năm sau nữa là 25.000 doanh nghiệp.
“Đường lớn đã mở/Đi tới tương lai…”, câu hát trong một ca khúc sáng tác năm 1975 không ngờ lại có tính dự báo về hệ thống hạ tầng bùng nổ và tăng tốc ở hai, ba thập kỷ sau đó.
Năm 1994, đường dây điện cao thế 500kV Bắc - Nam dài 1487 km đi qua 14 tỉnh thành đưa vào sử dụng, liên kết hệ thống điện cục bộ của 3 miền thành một khối thống nhất. Giao thông phát triển theo cấp số nhân; từ số 0, đến nay cả nước đã có hơn 2.000 km đường cao tốc. Nhiều tuyến vượt sông hồ, xuyên núi, xuyên rừng, đi qua những nơi hoang sơ, tạo trục "xương sống" phát triển, làm thay đổi các vùng đất.
Lạm phát được kiểm soát xuống dưới 2 rồi 1 con số, tăng trưởng trên 9% đạt được vào các năm 1995 (9,54%) và 1996 (9,34%). Kinh tế năm 2007 tăng trưởng 8,5%, cao nhất kể từ năm 1997.

Thị trường chứng khoán Việt Nam thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000.
Nguồn: TTXVN – Sách ảnh 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam, NXB Thông tấn
Một dấu mốc quan trọng là năm 2008, Việt Nam ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập thấp, để gia nhập nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
Việt Nam đã đạt được nhiều kỳ tích trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới đã giảm từ mức 28,9% của năm 2002 xuống còn 6,7% vào năm 2018.
Năm 2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại hội nghị Chính phủ với các địa phương ngày 28/12: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay.”.
Năm 2024, trong bài viết đăng vào dịp lễ Quốc khánh 2/9, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Bước sang thế kỷ 21, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 5,7-5,9%/năm, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới; quy mô nền kinh tế tăng 1,45 lần, ước đạt 500 tỷ USD vào năm 2025. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 3.400 USD đến khoảng 4.650 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; các chính sách điều hành linh hoạt, hiệu quả; vị thế, uy tín quốc tế ngày càng nâng cao; tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, đời sống Nhân dân được cải thiện đáng kể.
Kinh tế Việt Nam sau hơn 30 năm: Quy mô GDP tăng 246 lần, thu nhập tăng 17 lần
Từ một nước nghèo, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ trở thành quốc gia tiệm cận mức thu nhập trung bình cao. Quy mô GDP tăng gấp 246 lần sau 3 thập kỷ, tổng thu nhập quốc gia theo giá thực tế sắp chạm mốc 10 triệu tỷ đồng.
Nguồn: Bộ Tài chính
Xóa đói, giảm nghèo ngoạn mục
-
Tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2024: 4,06%
-
Tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo đa chiều: 1.258.997 hộ
-
Tỷ lệ hộ nghèo: 1,93%; tổng số hộ nghèo: 599.608 hộ
-
Tỷ lệ hộ cận nghèo là 2,13%; tổng số hộ cận nghèo: 659.389 hộ
-
Giai đoạn 2011-2015: Việt Nam về đích trước 10 năm so với mục tiêu xóa đói giảm nghèo
-
Việt Nam là 1 trong 25 quốc gia đã đưa được chỉ số nghèo đa chiều xuống một nửa trong vòng 15 năm
-
(Theo Bộ LĐ-TB&XH cũ, UNDP)
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2023 đạt 0,766, xếp trong nhóm các quốc gia có mức phát triển con người cao, đứng thứ 93 trên tổng số 193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nguồn: Báo cáo Phát triển con người, UNDP
Quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia
-
2006: Việt Nam gia nhập WTO
-
1995: Thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ; gia nhập ASEAN
-
Ký kết 17 Hiệp định thương mại tự do, bao gồm cả các hiệp định thế hệ mới với tiêu chuẩn cao như EVFTA, CPTPP
-
Có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, trong đó là đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia
-
Là thành viên trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế
-
Nguồn: Mofa

Thập niên “bùng nổ” doanh nghiệp
Bà Phạm Chi Lan hồi tưởng lại không khí bừng lên sau những chính sách khuyến khích người dân tham gia sản xuất, kinh doanh, mở doanh nghiệp


Theo lời kể của bà Phạm Chi Lan, năm 2005, tại hội nghị của các nhà tài trợ đã đặt vấn đề nên có tuyên bố về Đổi mới lần thứ hai, đó là hoàn thiện nền kinh tế thị trường. Đến năm 2015, khi thực hiện Báo cáo Việt Nam 2035, vấn đề Đổi mới lần thứ hai lại được đề cập, với bối cảnh mới của thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đổi mới là một quá trình liên tục, không ngừng, mang tính cách mạng. Thực tiễn đặt ra yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược để đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, nhân dân sống ấm no, hạnh phúc.
Từ giữa năm 2024, những quyết sách nhằm tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn’’, tạo xung lực, động lực mới đã ra đời, được đón nhận như “nắng hạn gặp mưa rào” (lời Chủ tịch HĐQT một tập đoàn).

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu tham quan triển lãm "Những thành tựu trong xây dựng và thực thi pháp luật", "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân” và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân sáng ngày 20/5/2025
Những đổi mới, cải cách tập trung vào 4 đột phá: Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; Nghị quyết 59 về chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng; Nghị quyết 68 về phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân; Nghị quyết 66 về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật.
“Bộ tứ trụ cột” thể chế nền tảng này sẽ tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước tiến lên, hiện thực hóa tầm nhìn Việt Nam phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Chỉ hơn nửa năm, cuộc cách mạng “tinh gọn bộ máy” diễn ra khẩn trương. Từ ngày 1/7/2025, cả nước triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở 34 tỉnh, thành phố và 3.321 xã, phường, đặc khu với không gian phát triển mới; đưa dân tộc bước vào một chương mới trong lịch sử hình thành và phát triển của đất nước.
Nhà báo Lê Thọ Bình (Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số) quan sát: “Năm 1945, gia đình nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô hiến hơn 5.000 lượng vàng cho Chính phủ lâm thời mà không đòi hỏi đặc ân, vì tin vào vận mệnh quốc gia. Hôm nay, thế hệ doanh nhân tỷ đô cũng chỉ cần một điều kiện tiên quyết: thể chế minh bạch, đồng bộ và nhất quán để họ yên tâm dốc trí lực, tài lực trong cuộc đua toàn cầu”.
Trong một bài viết năm 2024, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định “nhất định Việt Nam sẽ tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, thực hiện đúng ước nguyện trong di chúc của Bác Hồ “đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Ôn lại ý nghĩa lịch sử của các sự kiện 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 với VietNamNet, GS Vũ Minh Giang phân tích:
Là người có tầm nhìn xuyên thế kỷ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra: Nền độc lập mà Việt Nam có sau Cách mạng Tháng Tám đã phải đối mặt với các mối quan hệ có tính toàn cầu. Khi ấy chủ nghĩa thực dân đã có mặt ở khắp mọi nơi. Muốn có ánh sáng dưới mặt trời thì phải vươn lên để có vị thế trên bản đồ thế giới, đất nước phải trở nên hùng cường.
Ước nguyện giản dị là được sống yên bình, ai cũng có cơm ăn áo mặc sẽ là chưa đủ để gìn giữ Độc lập, mà cần phải vươn lên thành cường quốc.
Nhưng để thực hiện được khát vọng đó, chúng ta phải mất 80 năm. Chúng ta phải chống Pháp, chống Mỹ; chúng ta phải vượt qua khó khăn, phải đổi mới.
Đến hôm nay chính là thời điểm thực hiện ý nguyện “sánh vai với cường quốc” - bắt đầu kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Khát vọng vươn mình để trở thành cường quốc bắt đầu từ Hồ Chí Minh, sau Cách mạng Tháng Tám
Năm 2011, khi tình hình ở biển Đông căng thẳng, nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn lên mạng và bắt gặp bài thơ “Tổ quốc gọi tên” (nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai sáng tác bài thơ này sau cuộc trao đổi với phóng viên VietNamNet rồi gửi đăng trên 2 báo Hà Nội Mới, VietNamNet). Cảm xúc tuôn trào, chỉ khoảng 20 phút, ca khúc “Tổ quốc gọi tên mình” gần như đã hoàn chỉnh. Ca khúc được trình bày trong chương trình hòa nhạc Điều còn mãi do VietNamNet tổ chức tháng 9/2016.























2003 | 2023 | |
---|---|---|
Tín đồ | 17,4 triệu | 27,7 triệu |
Tôn giáo | 16 | 16 |
Tổ chức được công nhận hoặc cấp đăng ký hoạt động tôn giáo | 16 | 43 |
Chức sắc | 34.200 | > 54.500 |
Chức việc | ~ 79.000 | ~ 145.000 |
Cơ sở thờ tự | > 20.900 | 29.890 |


16 TÔN GIÁO, GẦN 28 TRIỆU TÍN ĐỒ | ||
---|---|---|
Tôn giáo | 2008 | 2023 |
Phật giáo | 10 triệu | > 14 triệu |
Công giáo | 6,15 triệu | > 7 triệu |
Đạo Tin Lành | > 880.000 | > 1,2 triệu |
Đạo Cao Đài | > 1 triệu | > 1,2 triệu |
Phật giáo Hòa Hảo | > 1,2 triệu | > 1,5 triệu |
Hồi giáo | > 72.000 | > 80.000 |
Tôn giáo Baha’i | 7.000 | > 7.000 |
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam | > 500.000 | > 600.000 |
Cơ đốc Phục lâm | > 16.000 | > 18.000 |
Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa | > 70.000 | 78.000 |
Minh Sư đạo | > 5.000 | |
Minh Lý đạo - Tam Tông miếu | 650 | |
Bà-la-môn giáo | > 66.000 | |
Giáo hội Các Thánh hữu Ngay sau của Chúa Giê-su Ky-tô | > 2.300 | |
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương | > 10.000 | > 10.000 |
Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn | > 6.500 |


